Đặc điểm và bản chất phong cách lãnh đạo, quản lý của Hồ Chí Minh

Ngày đăng: 30/10/2018 - 15:10

Phong cách lãnh đạo, quản lý của Hồ Chí Minh là một bộ phận, một nội dung quan trọng trong phong cách làm việc của Người, là một trong những di sản vô giá mà Người để lại cho dân tộc ta, gắn liền với vị thế, vai trò của một lãnh tụ vĩ đại của Đảng và dân tộc Việt Nam trong suốt mấy thập kỷ qua. Sự thuyết phục và sức lan tỏa của Người không dựa vào quyền lực, hay bằng sức mạnh của vũ lực mà bằng một phong cách lãnh đạo, quản lý khoa học, thiết thực và hiệu quả trong việc giải quyết mối quan hệ giữa công việc và con người. Phong cách lãnh đạo, quản lý của Hồ Chí Minh có giá trị cả chiều rộng lẫn chiều sâu, có sức lan tỏa sâu rộng về cả không gian và thời gian. Phong cách lãnh đạo, quản lý của Người  thể hiện ở những nội dung cơ bản sau:

Đặc điểm phong cách lãnh đạo, quản lý của Hồ Chí Minh

* Thống nhất giữa tính Đảng, tính nguyên tắc với tính linh hoạt, sáng tạo

Phong cách lãnh đạo, quản lý của Hồ Chí Minh thể hiện sự nhất quán, thống  nhất trong việc bảo đảm các mục tiêu, nguyên tắc cơ bản của Đảng, đồng thời linh hoạt, sáng tạo trong từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể và những phát sinh trong thực tiễn của cách mạng. Theo Hồ Chí Minh, cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý “phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết, lên trước hết. Vì lợi ích của Đảng tức là lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc. Vô luận lúc nào, vô luận việc gì, đảng viên và cán bộ phải đặt lợi ích của Đảng ra trước, lợi ích của cá nhân lại sau. Đó là nguyên tắc cao nhất của Đảng. Đó là “tính Đảng””1. Đây là phẩm chất chính trị cơ bản, đầu tiên và quan trọng nhất đối với mỗi người cán bộ lãnh đạo, quản lý.

Trong tư tưởng cũng như thực tiễn công tác lãnh đạo, quản lý, Hồ Chí Minh luôn giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; tuân thủ những vấn đề có tính cương lĩnh, quan điểm, mục tiêu của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Người xác định: “Mục đích bất di bất dịch của ta vẫn là hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ. Nguyên tắc của ta thì phải vững chắc, nhưng sách lược của ta thì linh hoạt”2. Người đã khéo léo xử lý mối quan hệ tưởng chừng đối lập giữa  tính kiên định về nguyên tắc, lý tưởng, niềm tin với tính linh hoạt, uyển chuyển trong phương pháp tư duy và hành động. Cốt lõi của quan điểm này chính là “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”.

Tóm lại, người lãnh đạo, quản lý vừa phải giữ vững đường lối, mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng; vừa phải sáng suốt, tỉnh táo, nhạy bén để xác định sách lược, hình thức, biện pháp thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ trong từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể. “Cán bộ lãnh đạo phải nắm vững chính sách của Đảng và Chính phủ, phải đi đúng đường lối quần chúng, phải biến quyết tâm của Đảng và Chính phủ thành quyết tâm của toàn dân”3 trên cơ sở tăng cường sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu chính trị đã đề ra.

* Kết hợp giữa nhiệt tình cách mạng với tính khách quan, khoa học

Trong phong cách lãnh đạo, quản lý của Hồ Chí Minh, nhiệt tình cách mạng là yếu tố cơ bản, là động lực cho mọi hành động. Nhiệt tình cách mạng nghĩa là có đạo đức cách mạng, có tinh thần yêu nước nồng nàn, giàu đức hy sinh, gương mẫu, nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, gian khổ để thực hiện nhiệm vụ do Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó. Tuy nhiên, nhiệt tình cách mạng chỉ phát huy hiệu quả khi nó tuân theo các quy luật khách quan và kết hợp chặt chẽ với tri thức khoa học. Không có tính khách quan, khoa học thì nhiệt tình cách mạng sẽ trở thành duy tâm, duy ý chí, dẫn tới thực hiện sai đường lối, chính sách, hành động trái quy luật, làm cản trở bước tiến lên của cách mạng. Nhiệt tình cách mạng của người cán bộ lãnh đạo, quản lý chỉ phát huy hiệu quả khi họ thực sự am hiểu và có vốn kiến thức phong phú, sâu rộng về công việc, lĩnh vực mà mình phụ trách.

Tính khách quan, khoa học trong phong cách lãnh đạo, quản lý của Hồ Chí Minh được bảo đảm bằng tri thức khoa học. Người luôn quan niệm: “Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời. Suốt đời phải gắn liền lý luận với công tác thực tế. Không ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, biết hết rồi. Thế giới ngày ngày đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ, cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân”4.

Tri thức khoa học được hình thành trong quá trình học tập, nghiên cứu, lăn lộn với thực tế và đời sống để không ngừng thu nhặt kiến thức, kỹ năng, nâng cao trình độ về chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ cũng như bồi dưỡng nhạy cảm chính trị trước những diễn biến mới của cách mạng và tình hình thế giới. Do vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Bất kỳ ở hoàn cảnh nào, đảng viên và cán bộ cần phải luôn luôn ra sức phấn đấu, ra sức làm việc, cố gắng học tập để nâng cao trình độ văn hóa, tri thức và chính trị của mình”5.

* Phong cách lãnh đạo, quản lý thống nhất giữa lý luận với thực tiễn

Trong quá trình lãnh đạo đất nước, lãnh đạo nhân dân thực hiện các nhiệm vụ của cách mạng, Hồ Chí Minh luôn đề cao, coi trọng vai trò của lý luận. Có lý luận mới có thể thực hiện được nhiệm vụ. Người không ngừng căn dặn, phải coi: “Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế. Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”6; “Lý luận sở dĩ quan trọng là vì nó dạy ta hành động. Nếu đưa một lý luận rất đúng ra nói, rồi xếp nó lại một xó, không đưa ra thực hành, thì lý luận ấy thành lý luận suông”7.

Đồng thời, Người chỉ rõ sự cần thiết phải gắn chặt lý luận với thực tiễn trong công tác. Bởi lẽ: “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”8. Người lãnh đạo, quản lý phải có năng lực vận dụng sáng tạo lý luận vào thực tiễn. Lý luận để nhằm áp dụng vào thực tế, thuộc lý luận mà thiếu thực tiễn thì sẽ dẫn tới bệnh giáo điều, sách vở. Thông qua thực tiễn, người cán bộ lãnh đạo, quản lý hiểu được sự vận động của các quan điểm lý luận, từ đó dự báo tình hình, nhiệm vụ cách mạng và đề ra các biện pháp thực hiện tốt vai trò lãnh đạo, quản lý của mình.

Người cho rằng cán bộ lãnh đạo, quản lý phải lấy kết quả thiết thực đã góp sức bao nhiêu cho sản xuất và lãnh đạo sản xuất mà đo ý chí cách mạng của mình, phải kiên quyết chống bệnh nói suông, thói phô trương hình thức, lối làm việc không nhằm mục đích nâng cao sản xuất. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Học tập chủ nghĩa Mác - Lênin là học tập cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình; là học tập những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta. Học để mà làm. Lý luận đi đôi với thực tiễn”9.

* Sâu sát với cơ sở, gần gũi với quần chúng nhân dân

Hồ Chí Minh là một tấm gương mẫu mực về phong cách lãnh đạo sâu sát với cơ sở, gần gũi, gắn bó với quần chúng nhân dân. Trong 10 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc (1955-1965), theo thống kê của Bảo tàng Hồ Chí Minh, Người đã thực hiện hơn 700 lượt đi thăm hỏi chiến sĩ và đồng bào, xem xét tình hình, kiểm tra công việc. Trung bình mỗi năm Người đi xuống cơ sở hơn 60 lượt, mỗi tháng có khoảng 6 lần lãnh tụ gặp gỡ quần chúng. Ngoài ra, hằng ngày qua đọc báo, đọc thư của nhân dân gửi lên, thấy có những ý kiến hay, cần tiếp thu, những việc gấp cần giải quyết, Người đều dùng bút đỏ đóng khung lại, chuyển tới các cơ quan có trách nhiệm, yêu cầu nghiên cứu và giải quyết. Cách làm việc này được thực hiện trên nguyên tắc: “cách làm việc, cách tổ chức, nói chuyện, tuyên truyền, khẩu hiệu, viết báo, v.v. của chúng ta đều phải lấy câu này làm khuôn phép: “Từ trong quần chúng ra. Về sâu trong quần chúng”10.

Làm việc sâu sát, đi vào thực tế, hòa mình với quần chúng để thực hiện vai trò lãnh đạo, quản lý là vấn đề có tính nguyên tắc xuất phát từ nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Đảng. Đối với Hồ Chí Minh, người cán bộ lãnh đạo biết lắng nghe, thấu hiểu và phát huy được tính tích cực, tự giác, sáng tạo của quần chúng sẽ đoàn kết, quy tụ được nhân dân, tạo nên động lực và sức mạnh to lớn để thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ.

Phong cách lãnh đạo và năng lực làm việc của cán bộ lãnh đạo là yếu tố quan trọng chi phối và tác động tới niềm tin của Nhân dân với Đảng, với Nhà nước. Đồng thời, phản ánh mức độ thấu hiểu và gắn bó của Đảng, Nhà nước với Nhân dân, bởi theo Hồ Chí Minh: Lãnh đạo tốt nghĩa là thực hiện đầy đủ những nghị quyết của Đảng, biến quyết tâm của Đảng thành quyết tâm của Nhân dân.

* Bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ; tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách

Hồ Chí Minh khẳng định: Chế độ ta “dân là chủ”, vì “dân là chủ” nên cách lãnh đạo cũng phải dân chủ. Dân chủ trong Đảng là tất cả đảng viên đều được tự do bày tỏ chính kiến trong sinh hoạt đảng để góp phần thống nhất về quan điểm, chủ trương lãnh đạo, chỉ đạo; xây dựng nghị quyết, đưa được nghị quyết vào cuộc sống. Vì vậy, dân chủ phải đi đến tập trung, là cơ sở của tập trung.

Người cho rằng, trách nhiệm và tính quyết đoán của người đứng đầu phải luôn được đề cao, bởi nó mang tính quyết định đến hiệu quả công việc. Người lãnh đạo giỏi cần có cách làm việc dân chủ, tập thể, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước tập thể, đồng thời phải quyết đoán đưa ra những quyết sách đúng trong những thời điểm quyết định. “Ai sợ phụ trách và không có sáng kiến thì không phải người lãnh đạo. Người lãnh đạo đúng đắn cần phải: Khi thất bại không hoang mang, khi thắng lợi không kiêu ngạo. Khi thi hành các nghị quyết, gan góc không sợ khó khăn”11. “Người lãnh đạo muốn biết rõ ưu điểm và khuyết điểm của mình, muốn biết công tác của mình tốt hay xấu, không gì bằng khuyên cán bộ mình mạnh bạo đề ra ý kiến và phê bình. Như thế, chẳng những không phạm gì đến uy tín của người lãnh đạo mà lại tỏ ra dân chủ thật thà trong Đảng”12.

* Khéo dùng người, trọng dụng nhân tài

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến việc đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ. Người cho rằng: “Công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém. Vì vậy, Đảng phải nuôi dạy cán bộ, như người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu. Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một người có ích cho công việc chung của chúng ta”13. Chính cách sử dụng cán bộ của Người là mẫu mực của việc “khéo dùng người, trọng dụng nhân tài”.

Người nhấn mạnh đến việc phải chủ động phát hiện và bồi dưỡng nhân tài. Trọng dụng nhân tài là công việc thường xuyên, liên tục; phải tùy tài mà dùng người: “Tài to ta dùng làm việc to, tài nhỏ ta cắt làm việc nhỏ, ai có năng lực về việc gì, ta đặt ngay vào việc ấy. Biết dùng người như vậy, ta sẽ không lo gì thiếu cán bộ”14. Việc dùng người phải đúng năng lực và sở trường, bởi lẽ: “Chúng ta phải nhớ rằng: người đời ai cũng có chỗ hay chỗ dở. Ta phải dùng chỗ hay của người và giúp người chữa chỗ dở. Dùng người cũng như dùng gỗ. Người thợ khéo thì gỗ to, nhỏ, thẳng, cong đều tùy chỗ mà dùng được”15.

Đồng thời, phải có gan cất nhắc cán bộ, cất nhắc những người có tài có đức để họ được cống hiến cho Đảng, cho cách mạng và Nhân dân: “Muốn tránh khỏi sự hao phí nhân tài, chúng ta cần phải sửa chữa cách lãnh đạo. Thí dụ: bắt buộc cán bộ trong mỗi ngành phải thiết thực báo cáo và cất nhắc nhân tài16.

Bản chất phong cách lãnh đạo, quản lý của Hồ Chí Minh

* Bản chất khoa học

Phong cách lãnh đạo, quản lý Hồ Chí Minh mang bản chất khoa học chân chính, bởi nó được hình thành trên nền tảng tư tưởng khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Lý luận Mác - Lênin đã cung cấp cho Hồ Chí Minh thế giới quan và phương pháp luận khoa học biện chứng, để tổng kết lịch sử và kinh nghiệm thực tiễn, tìm ra con đường lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam giành thắng lợi. Bản chất khoa học trong phong cách lãnh đạo, quản lý của Hồ Chí Minh được thể hiện ở chỗ, trong bất cứ công việc nào Người cũng xác định rõ phương hướng, mục đích; chương trình, kế hoạch cụ thể; kết hợp phương pháp thực hiện khoa học.

Đối với Hồ Chí Minh, ở bất cứ cương vị nào, Người đều căn cứ vào tình hình, điều kiện thực tiễn của Việt Nam, vận dụng các quy luật phát triển của cách mạng để đề ra những biện pháp giải quyết phù hợp, hiệu quả. Thời kỳ cách mạng giải phóng dân tộc, từ nhận thức Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong kiến, Hồ Chí Minh đã kiên trì tư tưởng dân tộc, đặt yêu cầu phải giải phóng dân tộc trước khi giải phóng giai cấp. Tư tưởng đó của Người có thời điểm vấp phải sự phản đối của Quốc tế Cộng sản và một số đồng chí trong Đảng, song thực tế của cách mạng đã chứng minh đó là một nhận thức đúng đắn, sáng tạo, mang bản chất khoa học của Hồ Chí Minh.

Bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Người yêu cầu cán bộ, đảng viên phải đặc biệt coi trọng việc học tập kinh nghiệm quý báu của các nước anh em. Đồng thời, Người nhắc nhở: “Ta không thể giống Liên Xô, vì Liên Xô có phong tục tập quán khác, có lịch sử địa lý khác. Các cô, các chú có thảo luận về Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ XX không? Đại hội đã chỉ cho ta thấy ta có thể đi con đường khác để tiến lên chủ nghĩa xã hội”17. Hồ Chí Minh quan niệm phải dùng lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác - Lênin mà tổng kết kinh nghiệm của Đảng, phân tích những đặc điểm của nước ta, qua đó hiểu được quy luật phát triển của cách mạng và đề ra đường lối, phương châm cụ thể, phù hợp với tình hình đất nước. Người cũng yêu cầu phải xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể, thiết thực, phù hợp với phương pháp thực hiện khoa học. Người phê bình cách làm việc đề ra chương trình, kế hoạch thật to tát, nhưng lại ít tìm cách để thực hiện cho đúng. “Chương trình công tác thì quá rộng rãi mà kém thiết thực. Ðặt ra kế hoạch và chương trình không xét rõ năng lực của những người thi hành kế hoạch và chương trình đó. Thành thử việc gì cũng muốn làm mà việc gì làm cũng không triệt để”18. Mỗi khi quyết định một vấn đề trọng đại, Người đều tranh thủ quan điểm của tập thể, tham khảo ý kiến của các đồng chí lãnh đạo chủ chốt. Chính phong cách làm việc, lãnh đạo khoa học, khách quan, dân chủ đó giúp cho Hồ Chí Minh có được những quyết sách đúng đắn, hành động phù hợp với thực tiễn, góp phần nâng cao uy tín cá nhân và củng cố niềm tin của Nhân dân đối với Đảng và sự nghiệp cách mạng của dân tộc.

* Bản chất cách mạng

Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin để giải quyết nhu cầu thực tiễn của cách mạng Việt Nam, đó là giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước. Người nói: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba. Từng bước một, trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác - Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”19.

Tính cách mạng trong phong cách lãnh đạo của Hồ Chí Minh thể hiện rõ trong quá trình chỉ đạo cách mạng Việt Nam ở từng thời điểm khác nhau. Người đã kế thừa, phát huy chủ nghĩa yêu nước, truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam và tinh hoa văn hóa của nhân loại, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trên nhiều vấn đề quan trọng, nhất là lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa. Người cho rằng, các dân tộc thuộc địa cần phải chủ động thực hiện nhiệm vụ tự giải phóng; cách mạng ở các nước thuộc địa không những không phụ thuộc vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở chính quốc mà cần phải tiến hành trước cách mạng ở chính quốc. Trong quá trình tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, Người nhận định: Việt Nam xây dựng chủ nghĩa xã hội trong những điều kiện đặc biệt, không giống với Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác, vì vậy, phải nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, phải học tập kinh nghiệm của các nước anh em, nhưng không được sao chép, rập khuôn, bởi ta có đặc điểm riêng của ta... Đây chính là sự sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin thêm một bước về tư duy và hành động của Hồ Chí Minh, phản ánh tính cách mạng trong tư tưởng và phong cách của Người.

* Bản chất nhân văn

Bản chất nhân văn trong phong cách lãnh đạo, quản lý Hồ Chí Minh hướng tới giải phóng con người, gắn liền với mục tiêu “độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Hồ Chí Minh cho rằng, mục tiêu giải phóng con người phải nằm trong mục tiêu giải phóng dân tộc. Bởi lẽ, dân tộc chưa được độc lập thì nhân dân không thể có tự do, hạnh phúc. Hồ Chí Minh coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển.

Trong công tác lãnh đạo, quản lý, Hồ Chí Minh luôn yêu thương con người, bao dung, độ lượng, tin tưởng vào sức mạnh, phẩm giá con người, trước tiên là nhân dân lao động. Người viết: “Năm ngón tay cũng có ngón vắn ngón dài. Nhưng vắn dài đều họp nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ. Ta phải nhận rằng đã là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hóa họ”20. Hồ Chí Minh luôn khuyến khích, nâng đỡ, khơi dậy ở con người mặt tốt, giúp họ vươn lên, khẳng định bản thân mình.

Như vậy, phong cách lãnh đạo, quản lý độc đáo của Hồ Chí Minh không chỉ tác động đến nhận thức mà còn có sức cảm hóa con người sâu sắc, đồng thời rất gần gũi, thiết thực. Phong cách của Người nói chung và phong cách lãnh đạo, quản lý nói riêng tạo thành những giá trị bền vững, có ý nghĩa to lớn đối với việc rèn luyện phong cách của cán bộ, lãnh đạo, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp trong điều kiện hiện nay. Đó không chỉ là những bài học, là chuẩn mực cho việc xây dựng phong cách người cán bộ cách mạng, mà còn là mẫu mực trong bồi dưỡng nhân cách cho các thế hệ người Việt Nam hôm nay và mai sau.

PGS. TS. Nguyễn Xuân Trung

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

1, 5, 6, 10, 11, 12, 13, 15, 16, 18. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 5, tr. 290-291, 293, 273-274, 288, 315, 319, 313, 88, 281, 463.

2, 7, 19. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd; t. 8, tr. 555; t. 7, tr. 127; t. 12, tr. 563.

3, 8, 9. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd., t. 11, tr. 555, 95, 611.

4, 17. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd., t. 10, tr. 377, 391.

14, 20. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd., t. 4, tr. 43, 280-281.

 

Bình luận