Mối quan hệ giữa thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa với đổi mới phương thức cầm quyền của Đảng

Ngày đăng: 12/11/2019 - 14:11

Thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa và đổi mới phương thức cầm quyền của Đảng có mối quan hệ biện chứng, hữu cơ, mật thiết với nhau. Trong mối quan hệ đó, thực hành dân chủ là cơ sở, tiền đề để đổi mới phương thức cầm quyền của Đảng; đổi mới phương thức cầm quyền của Đảng sẽ tạo điều kiện thực hành dân chủ thiết thực, hiệu quả. Trong 74 năm cầm quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam không ngừng đổi mới nhằm hoàn thiện phương thức lãnh đạo, coi bảo đảm phát huy dân chủ trong Đảng là hạt nhân để phát huy dân chủ trong xã hội. Trong giai đoạn hiện nay, tiếp tục làm sâu sắc hơn mối quan hệ giữa thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa với đổi mới phương thức cầm quyền của Đảng là một yêu cầu tất yếu khách quan.

Về dân chủ xã hội chủ nghĩa và thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa

Dân chủ là một giá trị của thời đại, là thước đo sự phát triển của nhân loại. Dân chủ là một phạm trù lịch sử, thuộc hình thái ý thức và kiến trúc thượng tầng của xã hội. Theo Từ điển chính tả tiếng Việt, với tính chất là một tính từ, dân chủ là “có quyền tham gia, bàn bạc vào công việc chung, được tôn trọng quyền lợi của từng thành viên trong xã hội”; với tính chất là một danh từ, dân chủ là “chế độ chính trị, theo đó quyền làm chủ thuộc về nhân dân”¹. Trong xã hội có giai cấp, mỗi chế độ dân chủ gắn liền với nhà nước đều mang bản chất của giai cấp thống trị. Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, dân chủ là quyền lực của số đông, là “sự thống trị của đa số”². Dân chủ phải gắn với tập trung. Thống nhất giữa hai mặt tập trung và dân chủ là vấn đề có tính nguyên tắc, không thể có dân chủ một cách tuyệt đối, dân chủ cực đoan. Nội dung cốt lõi của dân chủ là quyền lực thuộc về Nhân dân hay sự kiểm soát của Nhân dân đối với toàn bộ quá trình ban hành và thực thi các quyết định chung của chính thể nhà nước ấy. Nguyên tắc nền tảng của dân chủ là mọi công dân đều có quyền quyết định đối với tất cả những vấn đề chung của xã hội một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, thông qua sự ủy quyền cho những người đại diện của mình trong các cơ quan quyền lực của Nhà nước; đồng thời, công dân có quyền được hưởng lợi ích từ những quyết định ấy và việc hưởng thụ những quyền ấy phải là cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi công dân.

Theo Hồ Chí Minh, dân chủ đơn giản chỉ là dân là chủ và dân làm chủ. Nhân dân là người đóng vai trò quyết định đối với vận mệnh của đất nước. Đề cao dân chủ, phát huy dân chủ, đáp ứng nhu cầu dân chủ của người dân là một trong những động lực thúc đẩy sự nghiệp cách mạng. Người khẳng định: “Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân”³, là lợi ích thiết thực của Nhân dân, là cái thúc đẩy Nhân dân hành động vì đất nước, vì dân tộc.

Dân chủ xã hội chủ nghĩa là một nền dân chủ của Nhân dân, là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa là một trong những nhiệm vụ trọng yếu và lâu dài, bảo đảm tất cả quyền lực thuộc về Nhân dân. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, Nhân dân là chủ thể của quyền lực, có quyền và được bảo đảm các điều kiện để tham gia các hoạt động quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Nói một cách cụ thể, thực hiện dân chủ là tôn trọng quyền làm chủ của Nhân dân, được thực hiện qua hai hình thức chủ yếu: dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp. Dân chủ đại diện là Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua Nhà nước, dân chủ trực tiếp là Nhân dân thực hiện quyền làm chủ bằng việc tham gia thiết lập bộ máy nhà nước, quyết định các công việc trọng đại của quốc gia; thực hiện việc kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan công quyền và cán bộ, công chức nhà nước...

Thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa được hiểu là việc triển khai trên thực tế những cơ sở lý luận và căn cứ pháp lý về dân chủ xã hội chủ nghĩa; là việc thực hiện trong thực tiễn chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về quyền làm chủ của Nhân dân, các quyền con người và quyền công dân; hiện thực hóa phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và bảo đảm cho Nhân dân được hưởng những thành quả, lợi ích của việc thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa.

Để thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa, phải phát huy được vai trò chủ thể của Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội và Nhân dân nhằm huy động mọi nguồn lực để xây dựng đất nước. Đó là phát huy vai trò tích cực, tự giác, sáng tạo của con ngư­ời. Để thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa, Đảng ta luôn nhấn mạnh Đảng, Nhà nước phải gắn bó chặt chẽ với Nhân dân, trong đó Nhà nước phải bảo đảm thực hiện đầy đủ các quyền dân chủ của Nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của Nhân dân và chịu sự giám sát của Nhân dân. Nhà nước phải có cơ chế và các biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lộng quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân; đồng thời “Phê phán những biểu hiện dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức. Xử lý nghiêm những hành vi lợi dụng dân chủ để làm mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và những hành vi vi phạm quyền dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân”⁴.                   

Mục tiêu của thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa là củng cố và tăng cường sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong Nhân dân, xây dựng hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa vững mạnh; giữ vững ổn định chính trị, tạo tiền đề đẩy mạnh sự phát triển toàn diện đất nước; tăng c­ường mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân, thể hiện bản chất ­ưu việt của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.

Dân chủ và thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa là một quá trình lâu dài, đầy khó khăn, thử thách. Theo Hồ Chí Minh, để dân là chủ và dân làm chủ phải xây dựng một nền dân chủ thật sự của Nhân dân, nền dân chủ cho số đông. Dân chủ phải được bảo đảm trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; dân chủ trong Đảng và trong toàn xã hội. Trong một nước dân chủ, “địa vị cao nhất là dân”, do vậy, thực hành dân chủ trước hết là bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, là “làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm”⁵. Cần phải ra sức “phát huy dân chủ đến cao độ”, đồng thời “mở rộng dân chủ để nhân dân thật sự tham gia quản lý Nhà nước”, khiến mọi người dân “đưa hết khả năng làm tròn nhiệm vụ người chủ nước nhà để xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm cho nước ta mạnh, dân ta giàu”⁶. Phải thể chế hóa quyền làm chủ của Nhân dân thông qua Hiến pháp và pháp luật. Mọi cán bộ, đảng viên phải hết lòng, hết sức phục vụ Nhân dân, “làm đầy tớ cho nhân dân”. Đảng và Nhà nước phải bảo đảm lợi ích, chăm lo đời sống mọi mặt của Nhân dân, trước hết là về vật chất, phải có kế hoạch, chính sách tạo việc làm cho Nhân dân, khuyến khích Nhân dân chủ động lo việc làm, tự mình vươn lên thoát đói nghèo và làm giàu chính đáng bằng sức lao động của mình trong khuôn khổ pháp luật của Nhà nước. Để hoàn thành nhiệm vụ to lớn đó, trước tiên phải bảo đảm và thực hành dân chủ ở trong Đảng, vì có thực hành dân chủ trong Đảng mới bảo đảm được thực hành dân chủ trong xã hội. “Phải thật sự mở rộng dân chủ để tất cả đảng viên bày tỏ hết ý kiến của mình”⁷. Vấn đề mấu chốt nhất để thực hành dân chủ trong Đảng là thực hiện nguyên tắc “dân chủ tập trung”, “dân chủ tập trung” không chỉ là nguyên tắc lãnh đạo, mà còn là chế độ lãnh đạo của đảng cầm quyền. “Tập thể lãnh đạo là dân chủ. Cá nhân phụ trách là tập trung. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tức là dân chủ tập trung”⁸. “Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đôi với nhau”. Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong thực hành dân chủ trong Đảng phải được coi là một nguyên tắc quan trọng nhất, mọi tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên đều phải nghiêm túc thực hiện.

Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hành dân chủ, trong quá trình đổi mới, việc thực hành dân chủ đã được triển khai thực hiện ngày càng sâu rộng trong Đảng và trong xã hội. Đại hội XII của Đảng yêu cầu: “Phát huy dân chủ phải đi liền với tăng cường pháp chế, đề cao trách nhiệm công dân, giữ vững kỷ luật, kỷ cương và đề cao đạo đức xã hội. Phê phán những biểu hiện dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức. Xử lý nghiêm những hành vi lợi dụng dân chủ làm mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và những hành vi vi phạm quyền dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân”⁹.

Về phương thức cầm quyền và đổi mới phương thức cầm quyền của Đảng

Có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm đảng cầm quyền, do đó cũng dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau về phương thức cầm quyền của đảng. Nhưng tựu trung lại, có thể khái quát phương thức cầm quyền là cách thức, biện pháp đảng cầm quyền sử dụng để thực hiện quyền lãnh đạo nhà nước nhằm thực hiện nội dung cầm quyền. Tuy nhiên, nội dung đảng cầm quyền ở các quốc gia theo chế độ xã hội chủ nghĩa rộng hơn nhiều so với ở các quốc gia theo thể chế chính trị đa đảng đối lập. Ở các quốc gia theo thể chế chính trị đa đảng đối lập, các đảng chính trị có thể thông qua bầu cử dân chủ để lên nắm chính quyền. Đảng nào giành được vai trò cầm quyền sẽ bố trí đảng viên nắm giữ các vị trí then chốt của bộ máy nhà nước. Trong các thể chế chính trị đa đảng trên thế giới, đảng cầm quyền chủ yếu nắm quyền lãnh đạo nhà nước để điều hành đất nước. Ở các nước xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản cầm quyền lãnh đạo toàn diện Nhà nước và xã hội.

Ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội, là đảng cầm quyền. Sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng là tất yếu, khách quan, phù hợp với thực tiễn lịch sử dân tộc.

Khái niệm đảng cầm quyền đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra lần đầu tiên trong tác phẩm Đường cách mệnh khi bàn về Cách mạng Tháng Mười Nga và sau đó được Người đề cập trong Di chúc. Tuy ít nói đến khái niệm cầm quyền, nhưng trong nhiều trường hợp, khái niệm lãnh đạo được Người sử dụng mang nội dung cầm quyền.

Trong các văn kiện Đại hội Đảng, bên cạnh khái niệm Đảng lãnh đạo, khái niệm Đảng cầm quyền cũng đã được Đảng ta đề cập từ rất sớm. Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng trình Đại hội IV của Đảng và Báo cáo về xây dựng Đảng trình Đại hội V của Đảng đã đề cập về nguy cơ của một đảng cầm quyền và những thiếu sót của Đảng trong lãnh đạo kinh tế với tư cách là một đảng cầm quyền. Cùng với quá trình đổi mới đất nước, mục đích, phương thức và nội dung cầm quyền của Đảng cũng được đặt ra. Văn kiện Đại hội VI của Đảng nêu rõ: “Xây dựng Đảng thật sự ngang tầm một đảng cầm quyền có trọng trách lãnh đạo toàn dân thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược”10 xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội”11. Đề cập về Đảng cầm quyền, Đại hội XII của Đảng yêu cầu: “Tiếp tục tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về đảng cầm quyền, xác định rõ mục đích cầm quyền, phương thức cầm quyền, nội dung cầm quyền”12. Tuy nhiên, các văn kiện Đại hội Đảng chủ yếu mới chỉ đề cập khái niệm Đảng cầm quyền một cách chung nhất, chưa nêu rõ những vấn đề cụ thể về mục đích, phương thức, nội dung cầm quyền của Đảng.

Nhìn một cách tổng thể, không có nhiều khác biệt giữa phương thức lãnh đạo và phương thức cầm quyền của Đảng. Lãnh đạo là việc đề ra chủ trương, đường lối, chiến lược, gắn với những vấn đề chung, tổng quát, chỉ rõ vai trò của Đảng trong tiến trình cách mạng từ khi Đảng ra đời. Nội dung lãnh đạo chủ yếu tập trung vào các quyết định lãnh đạo của Đảng. Phương thức lãnh đạo của Đảng tập trung xác định đường lối, mục tiêu cách mạng, công tác tư tưởng, tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên nhằm thực hiện thắng lợi đường lối, mục tiêu của Đảng. Cầm quyền là nắm giữ chính quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội khi đã giành được chính quyền. Nội dung cầm quyền của Đảng gồm những vấn đề chủ yếu như: (1) Đảng cầm quyền bằng việc đề ra chủ trương, đường lối và lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa chúng thành pháp luật của Nhà nước để quản lý xã hội. Đây là nội dung tất yếu và quan trọng nhất, nhất là trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; (2) Đảng cầm quyền bằng việc nắm quyền lực về mặt kinh tế và lãnh đạo Nhà nước thực hiện đường lối kinh tế của Đảng; (3) Đảng cầm quyền bằng việc nắm quyền lực về tư tưởng và lãnh đạo hệ thống chính trị làm công tác tư tưởng, công tác vận động quần chúng; (4) Đảng cầm quyền bằng công tác tổ chức và cán bộ; (5) Đảng cầm quyền bằng công tác kiểm tra. Để cầm quyền tốt, Đảng phải xây dựng được mô hình hệ thống chính trị phù hợp, bảo đảm được vai trò lãnh đạo của Đảng, đồng thời có cách thức phân công, bố trí, kiểm tra, giám sát cán bộ trong hệ thống chính trị để tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, các công việc thuộc về xây dựng Đảng. Đảng lãnh đạo Nhà nước nhưng bộ máy Đảng không làm công việc của Nhà nước, không tổ chức và hoạt động trùng lắp với bộ máy nhà nước.

Phương thức cầm quyền của Đảng có thể hiểu là cách thức, biện pháp thực hiện việc cầm quyền có hiệu quả. Có thể khái quát một số phương thức cầm quyền chủ yếu sau: (1) Đảng cầm quyền bằng cán bộ: bố trí đảng viên tham gia, nắm giữ những vị trí then chốt của Nhà nước, hệ thống chính trị, các thiết chế xã hội, để từ đó lãnh đạo Nhà nước, hệ thống chính trị, xã hội theo đường lối, chính sách của Đảng; (2) Đảng cầm quyền bằng tổ chức: sử dụng các biện pháp tổ chức để xây dựng bộ máy nhà nước, hệ thống chính trị, bộ máy Đảng và bảo đảm các tổ chức này hoạt động phù hợp đường lối chính trị của Đảng; (3) Đảng cầm quyền bằng công tác tư tưởng: sử dụng các biện pháp công tác tư tưởng để tuyên truyền, bảo vệ đường lối của Đảng, vừa để thực thi các nội dung cầm quyền, vừa để bảo vệ địa vị cầm quyền của Đảng; (4) Đảng cầm quyền bằng pháp luật: trong điều kiện Đảng cầm quyền, có Nhà nước và hướng đến Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, pháp luật là công cụ mạnh mẽ để thực hiện điều khiển hệ thống chính trị và toàn xã hội, trong khi đó, pháp luật chính là sự thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng13.

Đổi mới phương thức cầm quyền của Đảng là đổi mới cách thức, biện pháp cầm quyền của Đảng, bảo đảm Đảng thực hiện ngày càng tốt hơn vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng là đổi mới cách thức xây dựng và quyết định đường lối chính trị theo các yêu cầu dân chủ, khoa học, đổi mới cách tuyên truyền, vận động quần chúng, đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác cán bộ, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo, quản lý trong bộ máy nhà nước, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên.

Trong gần 75 năm cầm quyền, Đảng ta đã xây dựng được hệ thống chính trị, hệ thống chính quyền vững mạnh để thực hiện sự cầm quyền của mình. Hệ thống chính trị không ngừng được đổi mới, hoàn thiện vừa bảo đảm sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, vừa thực hiện tốt quyền làm chủ của Nhân dân. Đảng cầm quyền đã “hiện thân” vào hệ thống nhà nước, thực hiện chức năng của mình đưa đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Cơ chế cầm quyền ngày càng được hoàn thiện và các biện pháp cầm quyền ngày càng hiệu quả, được Nhân dân thừa nhận. Cơ chế Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý - Nhân dân làm chủ vừa chặt chẽ, vừa có tính mềm dẻo, linh hoạt, phù hợp với tình hình thực tiễn hiện nay. Tuy nhiên, thực tế hiện nay cũng cho thấy, tổ chức bộ máy cầm quyền của Đảng còn cồng kềnh, hiệu quả và hiệu lực chưa cao; cấu trúc bộ máy và hoạt động của hệ thống chính trị còn chồng chéo. Do đó, thực tiễn đặt ra yêu cầu phải không ngừng đổi mới phương thức cầm quyền của Đảng để Đảng thực hiện tốt sứ mệnh lịch sử của mình, là cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội.

Mối quan hệ giữa thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa với đổi mới phương thức cầm quyền của Đảng

Thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa và đổi mới phương thức cầm quyền của Đảng có mối quan hệ biện chứng, hữu cơ, mật thiết với nhau. Trong mối quan hệ giữa thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa và đổi mới phương thức cầm quyền của Đảng, thực hành dân chủ giữ vai trò cốt yếu, là cơ sở để đổi mới phương thức cầm quyền của Đảng. Nếu không thực hành dân chủ tốt, thì khó có thể đổi mới thành công phương thức cầm quyền của Đảng; đổi mới phương thức cầm quyền của Đảng sẽ tạo điều kiện thực hành dân chủ thiết thực, hiệu quả. Trong chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước. Nhà nước giữ vai trò là phương tiện để thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Để thực hành tốt dân chủ xã hội chủ nghĩa, Đảng phải đổi mới phương thức cầm quyền cho phù hợp với yêu cầu dân chủ ngày càng cao của xã hội. Đảng cầm quyền là Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội thực hiện Cương lĩnh, đường lối của Đảng, biến lý tưởng của Đảng thành hiện thực cách mạng. Đảng lãnh đạo xã hội thông qua Nhà nước, bằng Nhà nước, phát huy vai trò của Nhà nước trong quản lý và điều hành đất nước, bảo đảm Nhà nước thật sự là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Đảng lãnh đạo Nhà nước nhưng không làm thay Nhà nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, phát huy vai trò làm chủ của Nhân dân là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng.

Trong tiến trình đổi mới, mối quan hệ giữa thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa và đổi mới phương thức cầm quyền của Đảng đã từng bước được Đảng ta giải quyết trong thực tiễn. Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội được tăng cường, củng cố. Quyền làm chủ của Nhân dân không ngừng được phát huy trong thực tế. Nhận thức về vai trò, nội dung của dân chủ trong Đảng và trong xã hội ngày càng sâu sắc. Đã có nhiều chủ trương, biện pháp để đẩy mạnh dân chủ hóa xã hội được ban hành và thực hiện trên thực tế. Nhà nước ngày càng thực hiện tốt hơn vai trò quản lý, điều hành đất nước. Chức năng, nhiệm vụ, tổ chức của bộ máy nhà nước từng bước được điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu đổi mới. Mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị được giải quyết tốt hơn. Nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng có sự đổi mới, bảo đảm vừa tăng cường sự lãnh đạo của tổ chức đảng vừa phát huy tính chủ động, sáng tạo của các cơ quan nhà nước. Tình trạng Đảng bao biện, làm thay Nhà nước giảm dần. Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và Nhân dân tham gia ngày càng tích cực vào công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước, hoạch định chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Trình độ, năng lực làm chủ của Nhân dân không ngừng được nâng lên. Nhân dân ngày càng ý thức được quyền và nghĩa vụ của mình trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân.

Mặc dù mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và đổi mới phương thức cầm quyền của Đảng đã được xác định rõ, nhưng việc thực hành dân chủ trong thực tế vẫn còn tồn tại những hạn chế. Phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng còn có những bất cập, chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Chức năng, quyền hạn giữa Đảng lãnh đạo và Nhà nước quản lý có những mặt chưa được phân định rõ, nhất là ở cấp địa phương. Vẫn còn tình trạng Đảng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng lãnh đạo, quản lý trên một số lĩnh vực. Một số nội dung cơ bản về phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội; về mối quan hệ công tác giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị; về quyền làm chủ của Nhân dân, nhất là quyền làm chủ trực tiếp... còn chậm được ban hành, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện. Bộ máy hành chính còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc; chức năng, nhiệm vụ của một số tổ chức còn chồng chéo; hiệu lực, hiệu quả hoạt động của nhiều tổ chức trong hệ thống chính trị chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Tình trạng quan liêu, nhũng nhiễu của một bộ phận cán bộ, công chức còn nặng nề.  

Trong giai đoạn hiện nay, để việc thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa gắn với đổi mới phương thức cầm quyền của Đảng, cần lưu ý một số vấn đề sau:

Một là, việc một đảng duy nhất cầm quyền sẽ tạo thuận lợi cho việc phát huy dân chủ trong Đảng và trong xã hội; mọi vấn đề từ cương lĩnh, đường lối, chiến lược, sách lược đến chủ trương, chính sách cụ thể của Đảng đều có thể thảo luận, tranh luận rộng rãi trong Đảng và lấy ý kiến Nhân dân. Tuy nhiên, một đảng độc tôn lãnh đạo cũng dễ dẫn đến nguy cơ chủ quan, tự mãn, kiêu ngạo, đặc quyền đặc lợi, quan liêu, xa rời Nhân dân mà không ai dám phê phán. Bệnh quan liêu trong quản lý nhà nước, vi phạm quyền làm chủ của Nhân dân gắn liền với thiếu dân chủ trong nội bộ Đảng. Đã quan liêu, mất dân chủ ngay trong nội bộ Đảng thì khó có thể dân chủ với Nhân dân. Đây là nguy cơ thoái hóa, biến chất lớn nhất của Đảng cầm quyền, nhất là của những người nắm quyền lực. Với những thuận lợi và khó khăn đó, việc làm cho Đảng thực sự là biểu tượng về dân chủ là vấn đề cốt tử để phát huy dân chủ với chất lượng và hiệu quả ngày càng cao.

Hai là, việc thực hành dân chủ yêu cầu Đảng cầm quyền phải thực hiện cầm quyền vì Nhân dân và dựa vào Nhân dân, cầm quyền theo Hiến pháp và pháp luật, cầm quyền một cách khoa học và dân chủ. Để thực hành dân chủ trong Đảng và trong xã hội, yêu cầu đặt ra đối với Đảng cầm quyền là:

- Đảng cần tiếp tục đổi mới cả trong công tác lý luận, công tác tư tưởng, công tác tổ chức, công tác cán bộ, công tác kiểm tra và phương thức lãnh đạo theo hướng mở rộng dân chủ hơn nữa, khắc phục những hạn chế, thiếu sót mà Đảng đã mắc phải. Mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng phải luôn xuất phát từ lợi ích của Nhân dân.

- Đảng phải thật sự thấm nhuần dân là gốc, dân là chủ và dân làm chủ; tránh dân chủ hình thức.

- Đảng phải giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh làm trong sạch Đảng và chống tham nhũng, lãng phí.

- Cùng với việc chủ động nâng cao đạo đức trong Đảng, phải rất coi trọng việc nâng cao trình độ trí tuệ của Đảng và thu hút được nhiều nhân tài vào Đảng. Đề phòng tính kiêu ngạo cộng sản, biết lắng nghe ý kiến của Nhân dân.

Ba là, để phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, Đảng cần tập trung sự lãnh đạo của mình vào những vấn đề sau:

- Đảng cần tập trung sự lãnh đạo chính trị của mình vào việc xây dựng một xã hội mà mọi người dân thực sự có quyền làm chủ đất nước, làm chủ xã hội; đều có cơ hội phát triển và có điều kiện nâng cao năng lực để đón bắt được những cơ hội phát triển do đất nước tạo ra, làm theo năng lực, hưởng theo kết quả lao động; có điều kiện và cơ hội phát huy tối đa năng lực làm việc và sáng tạo cho sự phát triển đất nước,… Đây là một nội dung lãnh đạo của Đảng, đồng thời cũng là cơ sở xã hội bền vững cho sự cầm quyền và lãnh đạo của Đảng.

- Đảng cần lãnh đạo Nhà nước thực hiện tốt hơn nữa việc phân phối công bằng những thành quả của đổi mới và phát triển đất nước cho các giai tầng trong xã hội, các vùng miền trong cả nước nhằm tạo những động lực mới cho sự phát triển; gắn kết tốt hơn nữa giữa tăng trưởng kinh tế với xóa đói, giảm nghèo và giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc, giảm thiểu tối đa những tiêu cực, biến động xấu của thị trường và cơ chế thị trường.

- Đảng cần thúc đẩy dân chủ hóa các quyết sách trong Đảng, Nhà nước và xã hội; bảo đảm cho các quyết sách được xây dựng trên cơ sở khoa học và dân chủ. Cần tạo cơ hội và điều kiện, cơ chế cho mọi người dân thực hiện nhiều hơn, tốt hơn quyền dân chủ trực tiếp thông qua quyền bầu cử, quyền được thông tin, quyền được tham gia, quyền được giám sát trực tiếp theo luật định.

- Tăng cường sự giám sát của Nhân dân, của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội đối với hoạt động của các cơ quan quyền lực của Nhà nước. Cần xây dựng chế độ công tác, bảo đảm điều kiện làm việc để mọi tổ chức đảng và cơ quan nhà nước thực hiện tốt công tác tự kiểm tra, giám sát và đặt các tổ chức, cơ quan này dưới sự kiểm tra giám sát trực tiếp của Nhân dân và giám sát gián tiếp của những tổ chức mà Nhân dân tin cậy, ủy quyền theo quy định của pháp luật.

Để việc thực hành dân chủ trong xã hội được thực hiện hiệu quả hơn nữa, trở thành cơ sở và tiền đề vững chắc để tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, phương thức cầm quyền của Đảng, Đảng ta xác định “trước hết phải bảo đảm phát huy dân chủ trong Đảng là hạt nhân để phát huy đầy đủ dân chủ trong xã hội. Đẩy mạnh dân chủ hóa xã hội để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, vai trò chủ động, sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân”14.

1. Từ điển chính tả tiếng Việt, Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội, 2011, tr. 152.

2.  V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, t. 32, tr. 515.

3, 5, 8. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 10, tr. 457; t. 15, tr. 293; t. 5, tr. 620.

4, 9, 12, 14. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 170, 39, 170, 217.

6, 7. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 377, 544.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 47, tr. 562.

11. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 88.

13. PGS.TS. Nguyễn Văn Giang: Sự giống và khác nhau giữa nội dung, phương thức lãnh đạo và cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 9/2017.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. V.I. Lênin: Toàn tập, tập 77, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1977.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 47, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.

3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, 15 tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016.

6. GS.TS. Phạm Văn Đức (Chủ biên): Thực hành dân chủ trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2017.

7. Hội đồng Lý luận Trung ương: Một số vấn đề lý luận - thực tiễn cấp thiết liên quan trực tiếp đến đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2018.

8. GS.TS. Nguyễn Phú Trọng (Chủ biên): Về các mối quan hệ lớn cần được giải quyết tốt trong quá trình đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011.

9. GS.TS. Phùng Hữu Phú, GS.TS. Lê Hữu Nghĩa, GS.TS. Vũ Văn Hiền, PGS.TS. Nguyễn Viết Thông (Đồng chủ biên): Một số vấn đề lý luận - thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam qua 30 năm đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016.

10. TS. Đinh Thế Huynh, GS.TS. Lê Hữu Nghĩa, GS.TS. Vũ Văn Hiền, PGS.TS. Nguyễn Viết Thông (Đồng chủ biên): 30 năm đổi mới và phát triển ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2015.

11. PGS.TS. Nguyễn Viết Thông: Nhận thức về nội dung, phương thức cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, in trong sách Hội đồng Khoa học các cơ quan Đảng Trung ương: Báo cáo khoa học thường niên năm 2017, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2018.

12.  PGS.TS. Ngô Văn Thạo: Đảng cầm quyền và vấn đề đặt ra trong phương thức lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên của Đảng hiện nay, in trong sách Hội đồng Lý luận Trung ương: Niên giám khoa học năm 2017, tập 1 - Những vấn đề chính trị, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2018.

13. Từ điển chính tả tiếng Việt, Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội, 2011.

PHẠM CHÍ THÀNH

Quyền Giám đốc - Tổng Biên tập

 Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật

Bình luận

Bài viết liên quan | Xem tất cả