Vai trò của nghiên cứu khoa học trong hoạch định chính sách công

Ngày đăng: 14/11/2018 - 15:11

Nghiên cứu khoa học (NCKH) ngày càng đóng vai trò quan trọng trong quá trình xây dựng chính sách và ra quyết định. Xã hội hiện đại đem lại nhiều thách thức không thể giải quyết dễ dàng và thỏa đáng bằng cách sử dụng tri giác, vận dụng kinh nghiệm, nguyên lý tư tưởng thông thường hoặc các phương pháp phân tích cơ bản. Cho dù đó là các vấn đề lớn như: biến đổi khí hậu, năng lượng tái tạo, thiên tai, đại dịch hay các vấn đề xã hội nói chung thì các nhà hoạch định chính sách đều muốn được cung cấp thông tin, bằng chứng cho các quyết định của mình thông qua kết quả NCKH. Đặc biệt, đối với một quốc gia đang phát triển như Việt Nam thì nhu cầu kết nối giữa NCKH và chính sách càng trở nên cần thiết. Bởi vậy, chính phủ cần có bằng chứng khoa học ở phạm vi rộng từ phát triển chính sách dài hạn cho đến việc xử lý, quản lý khủng hoảng khẩn cấp. Tổ chức WHO cho rằng, nếu các luận cứ khoa học được sử dụng hiệu quả hơn trong công tác hoạch định chính sách thì chúng có thể giúp cải thiện cuộc sống thông qua những chính sách khả thi, hiệu quả, phù hợp với những tiến bộ khoa học và kỹ thuật, đồng thời có thể giúp khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên, nhân lực hiệu quả, làm thỏa mãn nhu cầu của người dân nhiều hơn.

1. Khái quát về NCKH và hoạch định chính sách công

Xét về bản chất, NCKH là một quá trình nhận thức hiện thực khách quan và phản ánh những sự kiện, những quy luật của hiện thực khách quan đó. NCKH là một hoạt động trí tuệ đặc thù, sử dụng những phương pháp nghiên cứu nhất định để tìm kiếm, xem xét, điều tra hoặc thử nghiệm những điều mà khoa học trước đó chưa biết và chưa giải thích được. Tức là, NCKH là quá trình nghiên cứu để tạo ra sản phẩm mới dưới dạng tri thức mới, có giá trị mới về nhận thức và phương pháp. Nói cách khác, NCKH là phát hiện những hiện tượng, sự việc mới có tính chân lý hoặc khám phá những quy luật, nguyên lý mới có giá trị hơn để nhận thức và cải tạo thế giới. Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là NCKH bao giờ cũng phải nhằm vào những vấn đề to lớn, khó khăn, phức tạp mà NCKH có thể xuất phát từ vấn đề rất đơn giản, bình thường nhưng lại hướng tới những đề xuất, những sáng tạo mới nhằm phát hiện chân lý. NCKH cũng được coi là một dạng hoạt động đặc biệt, hoàn toàn khác với các hoạt động khác trong đời sống xã hội ở chỗ, NCKH hướng tới tìm kiếm những điều chưa biết hoặc làm sáng tỏ hơn nữa vấn đề đang muốn tìm hiểu mà trước đó, các nghiên cứu chưa đề cập đến.

NCKH có 3 đặc điểm cơ bản: tính khách quan, chính xác; tính vận động và phát triển; tính sâu sắc.

- Tính khách quan, chính xác trong NCKH thể hiện ở sự trung thành với hiện thực khách quan khi phát hiện ra cái mới. Yêu cầu đó đòi hỏi chúng ta trước hết phải lựa chọn những đề tài nêu bật những vấn đề thiết thực được đặt ra từ thực tiễn hay lý luận. Yêu cầu khách quan, chính xác còn đòi hỏi phải lựa chọn phương pháp, biện pháp, công cụ, kỹ thuật nghiên cứu phù hợp để ghi nhận đúng đắn, đầy đủ nhất các sự kiện, hiện tượng và tài liệu. Vì hiện thực khách quan vốn có vô số liên hệ và quan hệ nên yêu cầu chúng ta phải có quan điểm toàn diện khi thu thập tài liệu cũng như khi sàng lọc, phân tích, lý giải tài liệu và đưa ra những kết luận cuối cùng.

- Tính vận động và phát triển thể hiện ở việc phát hiện đầy đủ tính quá trình, sự biến đổi và phát triển của đối tượng được nghiên cứu. Trong quá trình vận động và phát triển, sự vật, hiện tượng càng bộc lộ rõ hơn đặc điểm và quy luật của nó. Quan điểm này cũng cần được quán triệt khi lựa chọn đề tài nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu, khi phân tích, xử lý tài liệu cũng như khi trình bày kết quả nghiên cứu.

- Tính sâu sắc thể hiện ở sự nỗ lực tìm ra bản chất của sự kiện, tìm ra những quy luật chi phối các sự kiện đó chứ không dừng lại ở việc khảo sát bề mặt của sự kiện. Vì vậy, một công trình NCKH dù chỉ đòi hỏi ở mức phát hiện tình hình, cũng cần sử dụng những phương pháp, biện pháp, kỹ thuật, những khái niệm, phạm trù khoa học để mô tả, ghi nhận hiện tượng, để đo đạc, đánh giá, phân tích sự kiện ở mức đầy đủ, chính xác cao nhất. Tính sâu sắc thường đòi hỏi chúng ta thu hẹp phạm vi đề tài và chú trọng khả năng phân tích nhiều mặt.

Hoạch định chính sách là xây dựng chính sách mới xuất phát từ yêu cầu của quản lý, bao gồm cả mục tiêu và biện pháp mới. Hoạch định chính sách thực hiện theo quy trình được quy định bởi từng quốc gia. Quy trình hoạch định chính sách là tập hợp các bước cần phải thực hiện theo một trình tự xác định khi thiết kế chính sách. Đồng thời, các nhà hoạch định chính sách chỉ ra thứ tự các công việc phải thực hiện và chủ thể thực hiện ở từng khâu khi tiến hành hoạch định chính sách. Trong khi chu trình hoạch định chính sách của các nước nhìn chung khá giống nhau thì quy trình hoạch định chính sách lại khác nhau. Hoạch định chính sách có vị trí quan trọng trong chu trình chính sách và là điểm khởi đầu trong tiến trình chính sách. Chính sách được ban hành có bảo đảm các yêu cầu, tiêu chuẩn của một chính sách tốt hay không đều bắt đầu từ khâu hoạch định chính sách. Trong nội dung bài viết này, khái niệm hoạch định chính sách được hiểu và phân tích là khái niệm hoạch định chính sách công.

Chính sách công ở Việt Nam thường được thể chế hóa bằng các văn bản quy phạm pháp luật và theo trình tự quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Và để hiểu được hoạch định chính sách công, chúng ta phải đặt nó trong chu trình chính sách công. Có nhiều cách phân chia chu trình chính sách công, tuy nhiên, bài viết này chủ yếu đề cập đến việc phân chia chu trình chính sách công thành 3 giai đoạn: hoạch định chính sách, thực thi chính sách và đánh giá chính sách.

Sơ đồ chu trình chính sách công

Trong chu trình chính sách công, hoạch định chính sách là khâu đầu tiên. Đây là khâu bao gồm toàn bộ quá trình nghiên cứu, xây dựng và ban hành đầy đủ một chính sách để giải quyết một vấn đề công. Quy trình của khâu này gồm thiết lập chương trình nghị sự hay chương trình xây dựng chính sách; xây dựng dự thảo chính sách và quyết định chính sách.

Cụ thể, thiết lập chương trình chính sách công bao gồm xây dựng đề nghị chính sách (xác định vấn đề, mục tiêu chính sách, các giải pháp giải quyết vấn đề, đánh giá tác động của giải pháp, phân tích chi phí và lợi ích của các giải pháp, lựa chọn chính sách); thẩm tra đề nghị chính sách; xem xét thông qua chương trình nghị sự.

Xây dựng dự thảo chính sách công là quá trình thể hiện nội dung chính sách trên văn bản trước khi trình cấp có thẩm quyền thông qua.

Quyết định chính sách công là quá trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định chính sách công sẽ tiến hành thảo luận, xem xét và thông qua dự thảo chính sách.

2. Vai trò của NCKH trong hoạch định chính sách công

Từ cơ sở lý luận về NCKH và quy trình hoạch định chính sách, có thể xác định vai trò cơ bản của NCKH trong hoạch định chính sách công như sau:

Thứ nhất, NCKH giúp phát hiện ra các vấn đề chính sách và đề xuất chủ trương chính sách mới. Từ yêu cầu của thực tiễn khách quan, trước rất nhiều vấn đề phát sinh trong đời sống xã hội, NCKH giúp các nhà hoạch định chính sách xác định và lựa chọn vấn đề để giải quyết bằng chính sách. Việc nghiên cứu, phân tích kỹ càng vấn đề sẽ giúp xác định nguyên nhân nảy sinh vấn đề, mức độ nghiêm trọng và hậu quả đối với cộng đồng, xã hội; và xác định với tác động ảnh hưởng đến xã hội ở mức như vậy có nên đưa vào chương trình nghị sự không. Từ đó, cơ quan hoạch định chính sách xác định đúng vấn đề của chính sách, là tiền đề và cơ sở để có thể đề xuất được phương án chính sách phù hợp.

Thứ hai, NCKH giúp thu thập, phân tích và xử lý thông tin trong quá trình hoạch định chính sách. Thông tin có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình hoạch định chính sách. Tuy nhiên, thông tin chỉ có giá trị thực sự khi được thu thập và xử lý đáp ứng được những yêu cầu nhất định về mặt khoa học. Những vấn đề mà chính sách công hướng đến để giải quyết là những vấn đề tồn tại và vận động theo quy luật khách quan. Vì vậy, việc thu thập thông tin về chính sách công cần bảo đảm tính khách quan, phản ánh đúng vấn đề diễn ra trong thực tế. Để bảo đảm yêu cầu này, NCKH với những phương pháp cụ thể như nghiên cứu định tính (quan sát, phỏng vấn), nghiên cứu định lượng (trưng cầu ý kiến, khảo sát),… sẽ giúp các nhà hoạch định chính sách dự đoán được quy mô của các tác động chính sách đề xuất cũng như đo lường được những tác động thực tế của việc thực hiện chính sách hiện hành; đưa ra được những bằng chứng ủng hộ hoặc phản đối các phương án chính sách được đề xuất hoặc chính sách hiện hành. Như vậy, thông qua quá trình thu thập, phân tích và xử lý thông tin, các nhà hoạch định chính sách sẽ nắm được bản chất của vấn đề chính sách, từ đó, nhận diện vấn đề một cách đầy đủ, khách quan, chính xác, kịp thời, có bằng chứng cụ thể từ đó giúp quá trình hoạch định chính sách được chính xác, phù hợp với yêu cầu thực tiễn xã hội.

Thứ ba, NCKH giúp nhà hoạch định chính sách đưa ra các giải pháp giải quyết vấn đề. Mục đích của hoạch định chính sách công chính là ban hành được một chính sách công có thể giải quyết vấn đề công một cách triệt để và tốt nhất. Mục đích đó chỉ có thể đạt được thông qua xác định các giải pháp và phân tích các giải pháp. Xác định các giải pháp cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách tất cả các phương án có thể để giải quyết vấn đề chính sách. Phân tích giải pháp giúp dự đoán được những tác động tích cực hoặc tiêu cực của một phương án chính sách khi nó được đưa vào thực thi trong cuộc sống. Để có được kết quả phân tích này, các nhà hoạch định chính sách cần áp dụng được những phương pháp cụ thể trong NCKH như: phương pháp so sánh, phân tích tài liệu, chuyên gia… và vận dụng một cách phù hợp để đưa ra những giải pháp toàn diện nhất.

Thứ tư, NCKH trong hoạch định chính sách giúp thúc đẩy dân chủ, từ đó, định hướng và thiết kế các hành động chính sách để đạt mục tiêu giải quyết vấn đề chính sách. Một trong những mục đích quan trọng của NCKH trong hoạch định chính sách là nhằm tác động vào quá trình ra quyết định chính sách. Vì vậy, các chuyên gia về chính sách cần hỗ trợ để các nhà lãnh đạo, quản lý thực hiện một cách minh bạch và có trách nhiệm trong công việc mà người dân mong đợi ở họ. Nhiệm vụ của họ là thuyết phục rằng những khó khăn nào cần giải quyết, giải pháp nào cần chọn lựa và chính sách đề xuất nhằm phục vụ cho những lợi ích công nào.

Thứ năm, NCKH giúp các nhà hoạch định chính sách đánh giá khách quan tác động chính sách. Để xây dựng một chính sách tốt, các nhà hoạch định chính sách cũng cần phân tích, dự báo những tác động tích cực và tiêu cực của từng phương án chính sách đối với các đối tượng chịu tác động của chính sách, đồng thời dự báo và so sánh lợi ích, chi phí của các phương án chính sách nhằm cung cấp cơ sở để lựa chọn phương án chính sách tối ưu. Trên thực tế, để đánh giá tác động của chính sách công, các nhà phân tích có thể sử dụng phương pháp đánh giá định lượng hoặc định tính hoặc kết hợp cả hai phương pháp này. Tuy nhiên, việc sử dụng nhóm phương pháp hoặc phương pháp cụ thể nào phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: mục tiêu, phạm vi tác động của các chính sách; tính chất thông tin thu được; khả năng thu thập dữ liệu,… phục vụ cho đánh giá.

3. Một số giải pháp nâng cao vai trò của nghiên cứu khoa học trong hoạch định chính sách công ở Việt Nam hiện nay

Để phát huy tốt hơn vai trò của NCKH trong hoạch định chính sách công ở nước ta hiện nay, tác giả đề cập đến hai nhóm giải pháp hướng đến hai nhóm đối tượng chính tham gia vào quá trình NCKH, đó là: 1) Các tổ chức nghiên cứu, tư vấn chính sách trong lĩnh vực chính sách công; 2) Nhà NCKH trong lĩnh vực chính sách công.

Nhóm giải pháp đối với các tổ chức nghiên cứu, tư vấn chính sách trong lĩnh vực chính sách công

Một là, tiếp tục đổi mới và hoàn thiện thể chế tạo môi trường cho sự phát triển các loại hình tổ chức nghiên cứu, tư vấn chính sách. Cần tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách để phát triển các loại hình tổ chức nghiên cứu, tư vấn chính sách trong lĩnh vực chính sách công, trong đó có các tổ chức nghiên cứu dân sự hoạt động không dựa vào ngân sách nhà nước. Hiện nay, việc thực hiện chức năng phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân đang đặt ra không ít yêu cầu đối với việc xây dựng và kiện toàn hệ thống các tổ chức nghiên cứu chính sách của Mặt trận và các đoàn thể ở nước ta.

Hai là, thực hiện tốt dân chủ hóa, khoa học hóa quá trình hoạch định chính sách công. Việc mua dịch vụ tư vấn, giám định và phản biện chính sách cần công khai và minh bạch hơn nữa, tạo điều kiện để các loại hình tổ chức nghiên cứu chính sách đều có cơ hội tham gia.

Ba là, đa dạng hóa hình thức tương tác giữa các cơ quan hoạch định chính sách với các tổ chức nghiên cứu chính sách. Bên cạnh hình thức tương tác và trao đổi gián tiếp, các cơ quan hoạch định chính sách có thể tổ chức một số hội nghị lắng nghe ý kiến; tư vấn, hội thảo khoa học, hội nghị... có sự tham gia của các chuyên gia, các nhà khoa học ở các lĩnh vực khác nhau cũng như sự tham gia của các tổ chức nghiên cứu chính sách.

Bốn là, các tổ chức nghiên cứu chính sách cần đặc biệt coi trọng việc xây dựng và bồi dưỡng năng lực của mình. Thực tiễn nghiên cứu và xây dựng chính sách ở nhiều quốc gia trong khu vực và thế giới cho thấy một tổ chức nghiên cứu chính sách cần quan tâm đến 7 yếu tố cơ bản, đó là: tư tưởng, vấn đề, trách nhiệm, chiến lược, nhân tài, mạng lưới và thế mạnh trong lĩnh vực hoạt động. Bảy yếu tố cơ bản này liên quan mật thiết và có tác động qua lại lẫn nhau.

Nhóm giải pháp đối với nhà NCKH trong lĩnh vực chính sách công

Để NCKH đáp ứng được yêu cầu phát triển của xã hội trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, các nhà NCKH phải là lực lượng nòng cốt trong việc nghiên cứu và ứng dụng các kết quả nghiên cứu vào mọi lĩnh vực, trong đó có hoạch định chính sách công. Muốn vậy, cần có những giải pháp cụ thể trong giai đoạn hiện nay như sau:

Một là, hoàn thiện các chính sách đặc thù nhằm thu hút và tập hợp được nhiều nhân tài, các chuyên gia, nhà khoa học giỏi trong và ngoài nước tham gia vào các tổ chức nghiên cứu chính sách. Thực tế hiện nay cho thấy, nhiều cán bộ trẻ có trình độ cao, được đào tạo bài bản lại không muốn tham gia công tác NCKH. Nguyên nhân chủ yếu là do thu nhập thấp, điều kiện nghiên cứu của các viện nghiên cứu còn hạn chế so với các đơn vị trực thuộc lĩnh vực sản xuất, kinh doanh và dịch vụ, đặc biệt thấp hơn nhiều so với các viện nghiên cứu trong khu vực và thế giới. Chính vì vậy, Nhà nước cần có chính sách tiền lương và chính sách đãi ngộ thỏa đáng để khai thác và sử dụng nguồn chất xám trẻ này. Bên cạnh đó, các viện nghiên cứu cũng cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách đãi ngộ đội ngũ cán bộ khoa học xã hội, tạo động lực bằng vật chất và tinh thần theo hướng đãi ngộ hợp lý đối với từng đối tượng, đặc biệt đối với đội ngũ cán bộ có trình độ, khơi dậy và tạo dựng niềm say mê và hứng thú NCKH trong mỗi cán bộ.

Hai là, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực NCKH trong lĩnh vực chính sách công. Ở nước ta hiện nay, đa số người làm công tác NCKH được đào tạo bài bản, đã trải qua rèn luyện trong thực tiễn. Tuy nhiên, nhu cầu của thực tiễn đối với việc phát huy năng lực sáng tạo của nguồn nhân lực NCKH trong lĩnh vực chính sách công ngày càng cao. Nhân lực NCKH trong lĩnh vực chính sách công cần phải có phẩm chất đạo đức tốt, tư duy khoa học sắc sảo, năng động, tinh thần say mê NCKH, cập nhật phương pháp nghiên cứu tiên tiến, có vốn kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn phong phú, dồi dào. Để có được những phẩm chất đó, đòi hỏi đội ngũ nhân lực phải liên tục được đào tạo mới, đào tạo lại một cách quy củ, công phu và thường xuyên trong quá trình làm việc. Chính vì vậy, cần triển khai thực hiện tốt kế hoạch phát triển đào tạo nguồn nhân lực cho lĩnh vực chính sách công ở từng giai đoạn phát triển; đồng thời tổ chức các chương trình đào tạo nguồn nhân lực NCKH trong lĩnh vực chính sách công một cách đồng bộ với quy mô rộng khắp gắn với các mục tiêu cụ thể.

Ba là, thực hiện chính sách đãi ngộ đối với những người được đào tạo. Chính sách đãi ngộ hợp lý sẽ bảo đảm cho nhân lực NCKH trong lĩnh vực chính sách công yên tâm công tác, cống hiến. Để thực hiện được mục tiêu này, Nhà nước cần thực hiện chính sách cấp học bổng toàn phần, bán phần cho những người có nhu cầu học tập, NCKH để khuyến khích các nhà khoa học không ngừng học tập nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng làm việc và hội nhập quốc tế. Đồng thời, Nhà nước cũng nên hỗ trợ kinh phí để các nhà khoa học tham gia các khóa học, diễn đàn, hội thảo,… và có các chính sách đãi ngộ thỏa đáng về vật chất và tinh thần nhằm động viên kịp thời những người có năng lực NCKH.

ThS. Đinh Thị Nguyệt

                                                                   Học viện Hành chính quốc gia

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Vũ Cao Đàm: Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, Nxb. Khoa học và kỹ thuật, 1999.

2. Lưu Xuân Mới: Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, Nxb. Đại học Sư phạm Hà Nội, 2003.

3. Đặng Ngọc Lợi: “Chính sách công ở Việt Nam: Lý luận và thực tiễn”, http://www.tinkinhte. com, 2008.

4. Nguyễn Trọng Bình: “Phát huy vai trò của tổ chức nghiên cứu, tư vấn chính sách trong lĩnh vực chính sách công”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 4-2016.

5. Nguyễn Hữu Hải, Lê Văn Hòa: Đại cương về phân tích chính sách công, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2013.

6. Lê Chi Mai: Những vấn đề cơ bản về chính sách và quy trình chính sách, Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2001.

 

Bình luận