Mô hình tổ chức hoạt động Thừa phát lại trên thế giới

Ngày đăng: 09/11/2018 - 15:11

Thừa phát lại (TPL) là một nghề cung cấp dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực tư pháp, bổ trợ tư pháp có lịch sử phát triển lâu đời, vừa mang tính phổ biến vừa mang tính đặc thù phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa của các quốc gia trên thế giới. Để góp phần tìm hiểu về nghề TPL trên thế giới, bài viết khái quát lịch sử ra đời và các mô hình tổ chức, hoạt động TPL ở một số quốc gia trên thế giới hiện nay.

Khái quát lịch sử ra đời nghề Thừa phát lại

TPL có nguồn gốc từ thời La Mã cổ đại, và nước có truyền thống TPL lâu đời nhất, chuyên nghiệp nhất là Pháp. Từ thời La Mã cổ đại, các quan tòa Pháp đã phải nhờ đến sự trợ giúp của một đội ngũ những người được gọi là “officiales” để thực hiện hai chức năng là giữ gìn trật tự tại phiên tòa và kê biên tài sản hoặc đưa vào tù những con nợ trây ỳ. Đến thời Trung cổ, đội ngũ nhân viên này được đổi tên thành “sergent”, những người chủ yếu làm nhiệm vụ tống đạt văn bản và thi hành án và “huissier” những người có nhiệm vụ bảo vệ trật tự tại phiên tòa - tiếng Việt là Thừa phát lại. Cũng có tài liệu cho rằng, TPL có nguồn gốc từ việc chuyển giao một phần quyền lực của nhà vua cho những người có tiền để huy động kinh phí phục vụ cho các hoạt động của Nhà nước trong thời kỳ chiến tranh. Nguồn gốc lịch sử của TPL là do thực tế công lý đòi hỏi các bên trong tranh chấp dân sự, thương mại phải xuất hiện và xuất trình những chứng cứ để bảo vệ quyền lợi của mình, và đòi hỏi các quyết định, bản án của tòa án phải được thi hành. Yêu cầu kép này đã luôn tồn tại, nó giải thích vì sao TPL cũng luôn tồn tại trong xã hội.

Năm 1705, ở Pháp, hai chức năng trên đã được tập trung và giao cho duy nhất một người/chức danh thực hiện, đó là TPL. Chế định TPL ra đời từ thời điểm đó và được duy trì cho đến ngày nay. Tại Anh và nhiều nước châu Âu, Hoa Kỳ, TPL được gọi với nghĩa tương đương là Bailiff  hay gọi chung là Judicial Officer. Đây là người có quyền năng pháp lý để thực hiện một số công việc trong nội bộ tòa án, thu hồi nợ theo quyết định hoặc bản án của Tòa án. Trên thực tế, tùy theo công việc được giao, chức danh này được phân ra nhiều ngạch khác nhau như: Thừa phát trạng (expoloit d’Hussier) chuyên tống đạt giấy tờ hoặc lập vi bằng; TPL đăng đường (Hussier audiencier) chuyên phục vụ tại phiên tòa; TPL ủy cử (Hussier commis) là TPL được tạm thời cử ra để đảm nhiệm chức trách của TPL ở những địa phương chưa có TPL;...

Nghề TPL tồn tại và phát triển ở nhiều quốc gia trên thế giới. Trong số 28 nước ở châu Âu được khảo sát, nhiều nước có quy chế nghề TPL độc lập như: Anh, Xứ Wales, Pháp, Bỉ, Hy Lạp, Hà Lan,... Đặc biệt, năm 1990, khi Liên bang Xôviết tan rã, các nước mới gia nhập Liên minh Châu Âu như: Extônia, Hunggari, Ba Lan, Cộng hòa Séc, Xlôvakia, Xlôvenia, Rumani, Bungari,... đã thừa nhận TPL là nghề tự do, độc lập với quyền lực của nhà nước. Liên bang Nga cũng đã công nhận và phát triển TPL như một nghề từ năm 1997 với việc ban hành luật về TPL.

Một số nước, vùng lãnh thổ ở châu Á cũng đã cho phép TPL tồn tại và phát triển như một nghề độc lập như Hồng Kông, Xinggapo,... Hiện nay, Hiệp hội TPL quốc tế (UIHJ) có 86 thành viên với nhiều hoạt động phong phú nhằm trao đổi, hỗ trợ các thành viên trong quá trình hoạt động nghề nghiệp. Để trở thành người được bổ nhiệm TPL phải đáp ứng các tiêu chuẩn và điều kiện chặt chẽ do luật định. Nhìn chung, có 3 nhóm tiêu chuẩn được quy định đối với người hành nghề TPL, đó là: tiêu chuẩn chung (về tư cách công dân, độ tuổi, lý lịch và khả năng phù hợp nghề nghiệp), tiêu chuẩn về chuyên môn (trình độ chuyên môn nghề nghiệp, đào tạo, bằng cấp, chứng chỉ) và tiêu chuẩn về đạo đức và lý lịch tư pháp (không có tiền sử vi phạm pháp luật và đạo đức...).

Tại Pháp, quốc gia có lịch sử phát triển nghề TPL lâu đời nhất, người hành nghề TPL phải đáp ứng các tiêu chuẩn: là công dân Pháp theo Bộ luật quốc tịch; chưa từng bị kết án hình sự hoặc bị áp dụng biện pháp kỷ luật; chưa từng thực hiện hành vi gây tổn hại đến danh dự, vi phạm nguyên tắc trung thực hoặc thuần phong mỹ tục và chưa từng bị phá sản. Các điều kiện về năng lực chuyên môn: phải có bằng đại học hoặc có bằng Master 1 về luật (4 năm học luật) ; thực tập hành nghề 2 năm (1/2 thời gian tại Văn phòng TPL, 1/2 thời gian còn lại thực tập tại một văn phòng công chứng, luật sư, bán đấu giá, luật sư tại tòa án phúc thẩm, cơ quan hành chính nhà nước, bộ phận pháp chế và thuế của doanh nghiệp; thi đỗ kỳ thi sát hạch chuyên môn, trừ các trường hợp được miễn toàn bộ hoặc một phần các điều kiện này3. Mỗi người chỉ được tham gia kỳ thi sát hạch chuyên môn này nhiều nhất là 4 lần. Nếu không thi đỗ ở lần thứ tư thì không được nộp hồ sơ nữa.

Tại Hoa Kỳ, để trở thành một TPL thì phải là công dân Hoa Kỳ, trên 21 tuổi (tùy từng bang) và đạt các tiêu chuẩn: có ít nhất một bằng tốt nghiệp trung học hoặc tương đương (GED); được đào tạo chuyên môn tại trường cao đẳng từ 2 đến 4 năm, trường dạy nghề hoặc học viện cảnh sát với các môn học và kỹ năng trong thực thi pháp luật và quản lý; không có tiền án, tiền sự; phải duy trì các chuẩn mực cao nhất về sự liêm chính, trung thực; vượt qua bài kiểm tra sát hạch theo quy định của Liên bang và từng bang.

Hầu hết các nước được nghiên cứu đều quy định TPL là công lại, đó là người hành nghề tự do, độc lập, nhưng do Nhà nước bổ nhiệm khi có đủ các điều kiện về chuyên môn và phẩm chất đạo đức theo quy định của pháp luật.

Các hoạt động chính của Thừa phát lại

Trải qua lịch sử phát triển lâu dài, công việc của TPL đã được Nhà nước và nhân dân thừa nhận, pháp luật cũng đã cho phép mở rộng phạm vi các dịch vụ mà TPL được phép cung cấp. Qua nghiên cứu kinh nghiệm của các nước, phạm vi dịch vụ mà TPL cung cấp khá rộng, nhưng đều bao gồm 2 nhóm, nhóm dịch vụ truyền thống - độc quyền và nhóm dịch vụ không độc quyền.

Nhóm dịch vụ độc quyền: là các hoạt động thuộc thẩm quyền chuyên biệt của TPL mà chỉ có TPL mới có quyền tiến hành, gồm dịch vụ tống đạt văn bảnthi hành bản án, quyết định của tòa án. TPL phải thực hiện chức năng của mình khi có yêu cầu và người nào từ chối thực hiện nhiệm vụ có thể bị xử phạt rất nặng, thậm chí có thể phải bồi thường nếu người yêu cầu bị thiệt hại, ví dụ do TPL chậm trễ tống đạt nên không thể tiến hành được thủ tục, công việc mà người yêu cầu tống đạt muốn thực hiện.

Tống đạt văn bản: đây là hoạt động nhằm thông báo và chuyển giao các văn bản tư pháp hoặc giấy tờ pháp lý thông thường cho các đương sự, cá nhân, tổ chức có liên quan. TPL, thư ký đã tuyên thệ được giao tống đạt văn bản của tòa án, đồng thời TPL cũng tống đạt văn bản của tổ chức, cá nhân khác nhằm yêu cầu thực hiện nghĩa vụ. Việc tống đạt bao gồm cả văn bản tư pháp (các văn bản liên quan trực tiếp đến thủ tục tố tụng) hoặc phi tư pháp.

Thi hành bản án, quyết định, lệnh của tòa án: Trong số 27 nước thành viên EU được khảo sát có: 8 nước, công việc thi hành án dân sự (THADS) do công chức nhà nước thực hiện; 5 nước vừa có TPL hành nghề tự do, vừa có công chức nhà nước làm chức năng thi hành một số loại án và có 15 nước chỉ có TPL hoạt động  với tính chất là một nghề tự do, độc lập, đảm trách hoàn toàn việc THADS. Phần lớn các nước xã hội chủ nghĩa cũ ở Đông Âu đều chuyển đổi từ mô hình cơ quan THADS nhà nước sang mô hình TPL hành nghề tự do cùng với quá trình chuyển đổi sang xây dựng nền kinh tế thị trường, cải cách bộ máy hành chính và tư pháp.

Tại Pháp, bản án có hiệu lực thi hành có nội dung như sau: “Do vậy, nước Cộng hòa Pháp ủy quyền và yêu cầu tất cả các TPL thi hành bản án này, yêu cầu các viện trưởng viện công tố bên cạnh các tòa án sơ thẩm thẩm quyền rộng và các tòa án phúc thẩm, và tất cả các sĩ quan chỉ huy lực lượng công hỗ trợ thi hành bản án này nếu được yêu cầu theo đúng quy định của pháp luật”. Với bản án có nội dung này, người được thi hành sẽ đến gặp TPL và yêu cầu TPL tiến hành thi hành án. TPL sẽ chịu trách nhiệm về thủ tục thi hành và lựa chọn thủ tục phù hợp nhất với sự nhất trí của người được thi hành án. Nếu thấy cần thiết và pháp luật cho phép, TPL có thể xin ban hành lệnh cưỡng chế thi hành. Trong quá trình thi hành án, TPL có thể yêu cầu sự trợ giúp của người làm chứng và nếu bị phản kháng thì có thể yêu cầu sự trợ giúp của lực lượng công, trong trường hợp có đối kháng, TPL có quyền yêu cầu cảnh sát can thiệp.

Nhóm dịch vụ không thuộc diện độc quyền: là các dịch vụ pháp lý mà TPL thực hiện bên cạnh những chủ thể khác cũng được trao thẩm quyền tùy thuộc vào pháp luật của từng quốc gia. Thuộc nhóm này, các dịch vụ lập vi bằng, bán đấu giá tài sản, tư vấn pháp luật được coi là phổ biến nhất.

Lập vi bằng: TPL có quyền lập vi bằng theo ủy quyền của tòa án hoặc theo yêu cầu của cá nhân để ghi nhận lại những sự kiện, hành vi một cách khách quan. Nhiều nước quy định thẩm quyền lập vi bằng của TPL để thẩm phán không phải đến tận nơi để tiến hành thu thập chứng cứ hoặc xác minh tình trạng của sự kiện, hành vi. TPL cũng có thể được một cá nhân trực tiếp yêu cầu lập vi bằng hoặc được tòa án chỉ định tiến hành lập vi bằng trên cơ sở lập một báo cáo viết, có thể có ảnh kèm theo nhằm cung cấp chứng cứ về một sự việc thực tế. TPL được lập vi bằng ghi nhận các sự kiện, hành vi mà pháp luật không cấm. Tuy nhiên, trong trường hợp gây ảnh hưởng đến đạo đức, những vấn đề nhạy cảm thì TPL sẽ cân nhắc không lập vi bằng. Vi bằng TPL lập không phải đăng ký tại một cơ quan công quyền nào nhưng phải lưu trữ theo quy định.

Bán đấu giá tài sản: TPL có thể tiến hành hoạt động bán đấu giá các tài sản là động sản, hoặc theo yêu cầu của đương sự hoặc để thi hành bản án, quyết định của tòa án. Trường hợp TPL tham gia đấu giá hoặc bán tài sản động sản, TPL có nghĩa vụ tuân thủ mọi quy định pháp luật điều chỉnh quy chế đấu giá viên tư pháp, nhưng chịu sự quản lý của Hội đồng TPL tỉnh. Điển hình như Pháp, TPL có thể tiến hành định giá và bán công khai các đồ đạc, động sản ở những nơi không có chuyên viên đấu giá hay ở Hungary, TPL có thể bán đấu giá động sản trong khuôn khổ cưỡng chế thi hành án hay đấu giá tự nguyện.

Thực hiện một số công việc tại tòa ánTPL ở một số nước được giao thực hiện các công việc tại tòa án như: triệu tập đương sự, giữ gìn trật tự tại phiên tòa tiến hành thủ tục khai mạc phiên tòa,…

Như vậy, xét về quan hệ của TPL với hệ thống tư pháp và với người dân thì các dịch vụ do TPL cung cấp ở hầu hết các nước đều mang tính chất là các hoạt động bổ trợ tư pháp bao gồm bổ trợ hoạt động xét xử, thi hành án và hỗ trợ người dân tiếp cận tư pháp, pháp luật, thực hiện đúng đắn các quyền, nghĩa vụ pháp lý của mình. Khi thực hiện các chức trách trong phạm vi pháp luật quy định, một mặt, TPL hành động với tư cách người được nhà nước ủy quyền thực thi quyền lực công, mặt khác họ lại đại diện cho khách hàng của mình để giải quyết công việc nhằm hỗ trợ cho hoạt động tư pháp trước, trong và sau phiên tòa xét xử.

Các mô hình và xu hướng phát triển TPL trên thế giới hiện nay

Mô hình thứ nhất: TPL hành nghề tự do, độc lập

Đối với một số quốc gia có nghề TPL truyền thống, lâu đời như Pháp, Bỉ, Hy Lạp, Lúcxămbua, Hà Lan,... TPL hành nghề độc lập, không hưởng lương từ ngân sách nhà nhưng được nhà nước bổ nhiệm, trao quyền để thực hiện một số công việc. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ đặc biệt là khi tổ chức thi hành án, TPL có quyền yêu cầu các cơ quan công quyền hỗ trợ, thực hiện các hoạt động mà pháp luật quy định thuộc nhiệm vụ, quyền hạn nghề nghiệp của TPL. Hoạt động của TPL chịu sự giám sát của các cơ quan nhà nước như tòa án, bộ tư pháp, viện công tố và chịu sự kiểm tra, quản lý của Hiệp hội nghề nghiệp TPL (Ở Pháp là Hội đồng TPL). Ở một số nước châu Phi, TPL cũng có quy chế và cơ cấu tổ chức giống như ở Pháp và các nước châu Âu khác.

Khi nghiên cứu về mô hình Thi hành án dân sự ở các nước thì mô hình của Pháp được xếp vào loại mô hình Thi hành án bán công với nghĩa là quá trình đưa bản án, quyết định của tòa án vào thực thi có sự tham gia của hai chủ thể: Thẩm phán chuyên trách thi hành án là đại diện của công quyền và Thừa phát lại (hành nghề tự do). Trong đó, TPL là người duy nhất có quyền thi hành các bản án, quyết định của tòa án trong trường hợp cần thiết, có thể bán tài sản của người có nghĩa vụ. Thẩm phán thi hành án có thẩm quyền ra các lệnh về cưỡng chế thi hành án theo yêu cầu của TPL để TPL tổ chức thi hành, là người và có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh trong quá trình thi hành án.

Mô hình thứ hai: Chấp hành viên tự chủ tài chính, hoạt động theo phương thức hành nghề tự do

Ở một số quốc gia khác như Đức, Áo, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Đan Mạch,... chấp hành viên là công chức do nhà nước bổ nhiệm nhưng hoạt động theo phương thức hành nghề tự do, làm việc độc lập với tòa án, chịu trách nhiệm về tài chính, nghề nghiệp và kỷ luật; Nhà nước có thể trả lương tối thiểu hoặc không trả lương cho những người hành nghề độc lập này. Mô hình tiêu biểu thuộc nhóm này là mô hình Chấp hành viên của CHLB Đức. Chấp hành viên đảm nhiệm những công việc tương tự như của TPL, chịu sự giám sát trực tiếp của chánh án tòa án quận, nhưng không nằm trong cơ cấu tổ chức của tòa án hay trong hệ thống các cơ quan bảo vệ pháp luật. Chấp hành viên thành lập văn phòng theo quản hạt của các tòa án quận và có trụ sở, con dấu riêng, giao dịch dưới tên gọi, chức danh, được tuyển nhân viên giúp việc. Chấp hành viên được nhà nước trả một khoản lương cố định, được nhận 15% lệ phí thi hành án và các khoản tiền thanh toán các chi phí khác như: đi lại, sao chụp tài liệu,.. từ phí thi hành án. Chấp hành viên tự trang trải cho hoạt động của văn phòng và phải mở tài khoản tại ngân hàng để phục vụ cho công việc của mình (gọi là tài khoản công vụ). Mọi hoạt động thu chi từ việc thi hành án đều phải được thực hiện thông qua tài khoản này.

Tại Nhật và một số nước châu Á, chấp hành viên do nhà nước bổ nhiệm, thực hiện công tác tống đạt và tổ chức thi hành án tương tự như mô hình của Đức.

Mô hình thứ ba: Xã hội hóa, chuyển đổi mô hình thi hành án nhà nước thành TPL hành nghề tự do, độc lập, có sự phân định phạm vi thẩm quyền thi hành án giữa TPL và thi hành án nhà nước

Một số quốc gia tại Đông Âu, Trung Âu có nền kinh tế chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường như: Bungaria, Hungary, Cộng hòa Séc, Ba Lan, Xlôvenia, Slovennia,.. và Campuchia ở Đông Nam Á đã xã hội hóa hoạt động thi hành án dân sự, nghĩa là chuyển đổi các cơ quan thi hành án dân sự nhà nước thành hệ thống các văn phòng TPL hành  nghề tự do, thực hiện tổ chức thi hành án, tống đạt văn bản tư pháp, lập vi bằng và cho phép sử dụng văn bản vi bằng do TPL lập như một loại chứng cứ,.. Việc chuyển đổi mô hình này diễn ra thuận lợi, phù hợp với nhu cầu của xã hội trong quá trình chuyển đổi mô hình kinh tế. Điển hình như tại Bungari, các cơ quan thi hành án nhà nước (thi hành án công) do tòa án quản lý, từ năm 2005 đã bắt đầu được chuyển đổi sang mô hình TPL một cách tự nhiên và hiện nay các văn phòng TPL đang hoạt động rất hiệu quả. Song song với quá trình chuyển đổi, Nhà nước ban hành luật về tổ chức TPL, tạo điều kiện cho các chấp hành viên nhà nước chuyển sang nghề TPL. Hiện nay, trong hệ thống thi hành án dân sự tại Bungari tồn tại song song cơ quan thi hành án nhà nước và văn phòng TPL tư nhân. Hầu hết những TPL đang hành nghề đã từng là chấp hành viên của cơ quan thi hành án nhà nước. TPL được pháp luật quy định quyền hạn, nghĩa vụ bình đẳng và chức năng, quyền hạn như chấp hành viên nhưng là đơn vị hạch toán độc lập và đóng thuế cho nhà nước. Hiện nay, ở Bungari thi hành án nhà nước chủ yếu tổ chức thi hành các vụ việc thu hồi tài sản cho nhà nước còn việc thi hành án dân sự theo yêu cầu của tổ chức, cá nhân thường do TPL thực hiện. Một số quốc gia khác như các Tiểu vương quốc Arập thống nhất, Iran,... cũng đang chuẩn bị chuyển đổi mô hình chấp hành viên nhà nước sang TPL tư nhân.

Mô hình thứ tư: Chỉ có chấp hành viên nhà nước có đầy đủ quyền hạn tổ chức thi hành án dân sự

Trung Quốc, Việt Nam là hai trong số ít các quốc gia duy trì mô hình này. Chấp hành viên và nhân viên cơ quan thi hành án đều hưởng lương như công chức, tổ chức và hoạt động thi hành án bằng nguồn ngân sách nhà nước. Trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, việc tái lập chế định TPL thí điểm mở rộng thành công tại Việt Nam trong những năm qua cho thấy chủ trương xã hội hóa các hoạt động bổ trợ tư pháp, thi hành án dân sự theo các mục tiêu cải cách tư pháp ở nước ta là đúng đắn, phù hợp với xu hướng chung trên thế giới về phát triển nghề TPL, đặc biệt là xu hướng của các nước có nền kinh tế chuyển đổi. TPL là nghề có truyền thống từ lâu đời và đang được nhiều quốc gia ở các khu vực khác nhau áp dụng thành công. Hoạt động của TPL còn có tác dụng hỗ trợ hoạt động cho các cơ quan tư pháp nhằm bảo đảm thực thi công lý và những phán quyết của tòa án được thi hành đầy đủ, kịp thời, đúng pháp luật.

Có thể thấy, hầu hết các quốc gia hiện nay đều áp dụng mô hình TPL với tư cách là người hành nghề tự do hoặc là người thuộc cơ quan nhà nước hoạt động theo cơ chế tự chủ tài chính. Điều này cho thấy, việc xây dựng mô hình TPL hoặc chuyển sang mô hình TPL là xu hướng ngày càng chiếm ưu thế trên thế giới, thể hiện sức sống bền bỉ cũng như ưu điểm của TPL, bổ khuyết cho các hoạt động của cơ quan nhà nước, đồng thời giảm gánh nặng ngân sách nhà nước.

Ở Việt Nam, với mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2-6-2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định: “Nghiên cứu thực hiện và phát triển các loại hình dịch vụ từ phía nhà nước để tạo điều kiện cho các đương sự chủ động thu thập chứng cứ chứng minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình,.. từng bước thực hiện việc xã hội hóa và quy định những hình thức, thủ tục để giao cho tổ chức không phải là cơ quan nhà nước thực hiện một số công việc thi hành án dân sự”; “Nghiên cứu chế định Thừa phát lại (thừa hành viên); trước mắt có thể tổ chức thí điểm tại một số địa phương, sau vài năm, trên cơ sở tổng kết, đánh giá thực tiễn sẽ có bước đi tiếp theo”. Thực hiện chủ trương thí điểm TPL theo Nghị quyết 49-NQ/TW, ngày 14-11-2008 Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 24/2008/QH12 về thi hành Luật Thi hành án dân sự, giao Chính phủ tiến hành quy định và tổ chức thực hiện thí điểm chế định TPL tại một số địa phương. Dựa trên kết quả thực hiện thí điểm, ngày 26-11-2015, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 107/2015/QH13 về việc thực hiện chế định TPL đồng thời ghi nhận kết quả đạt được; chấm dứt việc thí điểm và cho thực hiện chính thức chế định này trong phạm vi cả nước từ ngày 1-1-2016. Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu kinh nghiệm các quốc gia trong quá trình tổ chức hoạt động nghề TPL ở Việt Nam, góp phần nâng cao hiệu quả và bảo đảm phát triển bền vững hoạt động TPL, hỗ trợ tốt đối với hoạt động tư pháp và giúp người dân, tổ chức có thêm cơ chế để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

ThS. Đinh Công Tuấn

Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp

1. Nguyễn Đức Chính: “Thừa phát lại - Ông là ai?”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Chuyên đề “Chế định Thừa phát lại”, 2014, tr. 14-25.

2. Theo hệ thống giáo dục của Pháp, sau 3 năm học, sinh viên sẽ có bằng cử nhân (licence). Chương trình cao học (Master) kéo dài 2 năm và hết năm thứ nhất, sinh viên sẽ nhận được bằng Master 1.

3. Các trường hợp được miễn bằng cấp:

+ Miễn bằng Master 1 về luật đối với những người có bằng của Học viện nghiên cứu chính trị hoặc những người tốt nghiệp Trường Tố tụng quốc gia và đã làm việc 10 năm trong một văn phòng TPL với tư cách là thư ký TPL.

+ Miễn thực tập và thi sát hạch chuyên môn đối với người đã từng là TPL hoặc lục sự theo quyết định của Chưởng ấn, Bộ trưởng Tư pháp.

+ Có thể miễn thực tập và có thể là miễn thi sát hạch chuyên môn đối với người đã từng là nhân viên bán đấu giá.

+ Miễn thi sát hạch chuyên môn và một phần hoặc toàn bộ thời gian thực tập đối với người đã từng là thẩm phán, công tố viên và những người đã từng hành nghề pháp luật hoặc tư pháp.

Khi có bằng cấp rồi, người muốn trở thành TPL phải kế nhiệm một TPL đang quản lý một văn phòng TPL với tư cách cá nhân hoặc mua lại cổ phần của công ty dân sự nghề nghiệp hoặc công ty hành nghề tự do.

Bình luận