Quán triệt các quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ

Ngày đăng: 28/05/2018 - 11:05

 cán bộ tốt thì thành công, tức là có lãi; không có cán bộ tốt thì hỏng việc, tức là lỗ vốn, thì đây là đầu tư cho tương lai, đầu tư cho phát triển lâu dài, bền vững.

Một điểm mới được xác định trong Nghị quyết là đặt việc xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược trở thành một trọng tâm trong công tác cán bộ, là vấn đề hệ trọng của Đảng, quyết định đến thành bại của sự nghiệp cách mạng, sự tồn vong của chế độ. Sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, Liên Xô đã cho chúng ta bài học sâu sắc về hậu quả nghiêm trọng khi sai lầm trong bố trí cán bộ cấp chiến lược. Các nghị quyết của Trung ương trước đây dù đã đề cập đến cán bộ cấp chiến lược và người đứng đầu cấp ủy các cấp, nhưng chưa thật sự bao quát toàn diện, sâu sắc, chưa xác định rõ và khẳng định là vấn đề trọng tâm của công tác cán bộ, và từ đó chưa đầu tư thỏa đáng các nguồn lực cần thiết cho xây dựng đội ngũ này. Do đó, việc xác định xây dựng cán bộ cấp chiến lược và người đứng đầu cấp ủy, tổ chức Đảng các cấp là trọng tâm sẽ tạo chuyển biến mới về nhận thức, đẩy lùi căn bệnh bình quân chủ nghĩa, “dàn hàng ngang cùng tiến” trong xây dựng cán bộ tồn tại bấy lâu nay, tập trung nguồn lực ưu tiên đầu tư, tạo đột phá mới cho xây dựng đội ngũ cán bộ theo tư duy hệ thống và thực tiễn.

Công tác cán bộ có vị trí “then chốt," xuyên qua mọi mặt công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, vì thế phải tiến hành thận trọng, chặt chẽ, vững chắc, khoa học. Đường lối chính trị và công tác cán bộ là hai vấn đề trọng yếu có tính quyết định bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng. Song, đường lối chính trị cũng do cán bộ tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận mà chung đúc nên, đến lượt nó, khi đã có đường lối đúng thì chính cán bộ là người tổ chức thực hiện đường lối đó. Lựa chọn, sử dụng không đúng cán bộ không chỉ có nguy cơ lệch lạc trong khâu tổ chức thực hiện, mà kể cả gặp sai lầm trong khâu hoạch định đường lối. Đặt trong bối cảnh có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ thì sai lầm trong công tác cán bộ càng nguy hiểm bội phần, nên cán bộ các cấp, trước hết là cán bộ cấp chiến lược, phải được chăm lo xây dựng bài bản, lựa chọn cẩn trọng, sàng lọc kỹ càng, quản lý chặt chẽ và có cơ chế, chính sách phù hợp để khuyến khích đội ngũ này đổi mới, sáng tạo phục vụ phát triển. Cấp ủy đảng các cấp luôn phải quán triệt sâu sắc vị trí “then chốt” và tính “hệ trọng” của đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ, bảo đảm cho “then cài” luôn vững chắc, nếu thấy suy yếu hoặc có biểu hiện bị “ruỗng mọt” phải kịp thời thay thế. Mặt khác, nói đến công tác cán bộ là nói đến vấn đề con người với tất cả nhu cầu, lợi ích, tâm lý, tình cảm… rất phức tạp nên nghĩ phải “chín”, tiến hành phải thận trọng, chắc chắn, không thể làm ẩu, làm bừa, phải được làm chặt chẽ ở tất cả các khâu, từ tuyển chọn, quy hoạch, luân chuyển, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, giới thiệu, ứng cử đến đề bạt, bổ nhiệm, sử dụng và thực hiện chính sách cán bộ.

Công tác cán bộ không thể tiến hành theo “phong trào” mà tiến hành thường xuyên, liên tục, không được gián đoạn; được quan tâm trong cả vòng đời của một con người từ khi bắt đầu được phát hiện ở dạng nguồn đến khi trưởng thành; từ trạng thái phát triển bình thường đến các bước ngoặt khi cất nhắc, bố trí, đề bạt; từ hoạt động tạo nguồn đến đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch, bố trí, sử dụng cán bộ. Nhấn mạnh đến luận điểm này đòi hỏi phải khắc phục những thói quen, nếp nghĩ không đúng chỉ tập trung làm “công tác nhân sự” trước mỗi kỳ đại hội mà xem nhẹ hoặc buông trôi ở các thời điểm khác, thiếu tiến hành thường xuyên, bền bỉ với sự tận tâm, tận lực, trách nhiệm cao nhất của cấp ủy, người đứng đầu cấp ủy và cơ quan làm công tác tổ chức cán bộ.

Tiếp cận trên quan điểm hiệu quả đối với công tác cán bộ là vấn đề mới được đặt ra trong Nghị quyết lần này. Hiệu quả có thể được tiếp cận từ góc độ kinh tế học, xem đầu tư cho cán bộ là đầu tư cho phát triển lâu dài, phải có công cụ, phương pháp đo lường mức độ đầu tư với kết quả thu được, mấu chốt là đánh giá cán bộ bằng sản phẩm cụ thể. Đánh giá cán bộ vì thế trở thành khâu đột phá, trước hết để bảo đảm cho quan điểm hiệu quả được hiện thực hóa trên thực tế, khắc phục tình trạng lãng phí không đáng có. Tuy nhiên, công tác cán bộ còn phải xem xét trên quan điểm hiệu quả tổng hợp, bởi nhiều khoản đầu tư không thể đo lường theo kiểu “lời lãi” thuần túy, mà chúng chi phối cả trực tiếp và gián tiếp đến hình ảnh, năng lực cạnh tranh, lòng tin của nhân dân với chế độ, tăng cường tiềm lực về quốc phòng, an ninh, đối ngoại, phát triển văn hóa - xã hội...

Có những khoản đầu tư trước mắt nhưng kết quả thu được trong dài hạn. Vì vậy, quán triệt luận điểm này đòi hỏi phải huy động nguồn lực xứng đáng để đầu tư cho phát triển đội ngũ cán bộ, từ đầu tư cho đào tạo, bồi dưỡng đến chính sách tiền lương, nhà ở, bảo đảm đời sống, tạo động lực cho cán bộ. Cán bộ được đầu tư cả nguồn lực tài chính và phi tài chính cho học tập, đào tạo, rèn luyện... mới có cơ hội nâng cao trình độ, kiến thức, kỹ năng, đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế, có thể thích ứng với môi trường thay đổi. Khi chính sách tiền lương, nhà ở bảo đảm đời sống thì cán bộ mới yên tâm cống hiến, dấn thân, phấn đấu cho các giá trị công lợi, giữ gìn liêm chính, góp phần xây dựng văn hóa cầm quyền của Đảng. Nhưng nói như vậy không có nghĩa là chỉ cần tập trung đầu tư nguồn lực vật chất mà xem nhẹ đầu tư cho giáo dục chính trị tư tưởng, phát huy truyền thống văn hóa, lịch sử và lòng tự hào dân tộc.

Thứ hai, thực hiện nghiêm, nhất quán Đảng thống nhất lãnh đạo trực tiếp, toàn diện công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị. Chuẩn hóa, siết chặt kỷ luật, kỷ cương đi đôi với xây dựng thể chế, tạo môi trường, điều kiện để thúc đẩy đổi mới, phát huy sáng tạo và bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung. Phân công, phân cấp gắn với giao quyền, ràng buộc trách nhiệm, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực và xử lý nghiêm minh sai phạm.

Quan điểm trên đây tiếp tục khẳng định vấn đề có tính nguyên tắc là Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, được đưa ra trong Nghị quyết Trung ương 3 Khóa VIII nhưng đã phát triển lên một tầm cao mới cho phù hợp với tình hình thực tế. Đó là việc thực hiện nghiêm, nhất quán Đảng thống nhất lãnh đạo trực tiếp, toàn diện công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ. Phải nhấn mạnh điều này bởi ở nơi này hay nơi khác, lúc này hay lúc khác có tình trạng Đảng buông lỏng lãnh đạo đối với công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ; xem nhẹ nguyên tắc tập trung dân chủ trong quy hoạch, bổ nhiệm, tạo kẽ hở cho chạy chức, chạy quyền, tham nhũng trong công tác cán bộ; hoặc tuyệt đối hóa quản lý của Nhà nước đối với công chức, viên chức, làm chia cắt sự thống nhất quản lý biên chế trong toàn hệ thống chính trị hoặc ở một số khâu xây dựng đội ngũ công chức, viên chức. Hơn nữa, hiện vẫn còn có nội dung trong một số quy định của Nhà nước chưa phù hợp với các quy định của Đảng, gây khó khăn, bất cập khi triển khai trên thực tế. Vì vậy, phải khắc phục những nhận thức lệch lạc hoặc hạn chế, thiếu sót đó, từng bước lập lại trật tự, kỷ cương trong công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ một cách tổng thể, đồng bộ và liên thông trong hệ thống chính trị.

Điểm mới nổi bật ở quan điểm trên đây được đề cập xuyên suốt trong toàn bộ Nghị quyết lần này chính là nhận diện và xác định cách thức giải quyết hai mối quan hệ giữa chuẩn hóa, siết chặt kỷ luật, kỷ cương với xây dựng thể chế, tạo môi trường, điều kiện cho thúc đẩy đổi mới, phát huy sáng tạo của cán bộ; và giữa phân cấp, phân quyền gắn với kiểm tra, giám sát, ràng buộc quyền hạn với trách nhiệm, kiểm soát quyền lực, xử lý nghiêm sai phạm. Giải quyết tốt hai mối quan hệ này sẽ đột phá vào những mắt xích trọng yếu đang nuôi dưỡng chủ nghĩa trung bình, trì trệ, bảo thủ, tình trạng vô trách nhiệm, thiếu kỷ luật, kỷ cương, không xác định rõ trách nhiệm, triệt tiêu các đổi mới, sáng tạo, làm thui chột ý chí và năng lực của những con người dám nghĩ, dám làm, tạo kẽ hở cho lộng quyền, tha hóa quyền lực. Chuẩn hóa, siết chặt kỷ luật, kỷ cương, trước hết là để công tác cán bộ được khách quan, minh bạch, chống chạy chức, chạy quyền, khắc phục tình trạng cục bộ, khép kín, bệnh phường hội, lợi ích nhóm, thân hữu, dòng tộc, “cánh hẩu”... chi phối trong công tác cán bộ, chà đạp hoặc xem nhẹ các nguyên tắc, quy định, quy trình. Kiến tạo, mở rộng không gian, môi trường khuyến khích cán bộ đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đột phá vì lợi ích chung được bảo vệ bởi cơ chế “bảo đảm chính trị” để cán bộ tự tin phấn đấu, dấn thân mà không sợ rủi ro chính trị, để tránh tư tưởng an phận thủ thường làm thui chột tài năng, nhuệ khí, thấy đúng không dám bảo vệ, thấy sai không dám đấu tranh.

Thực tế cho thấy, sáng tạo và đột phá luôn thuộc về thiểu số, vượt trước nhận thức của số đông, nếu không nhận được sự đồng tình ủng hộ của tập thể, nếu không có cơ chế bảo vệ cán bộ thì không những các ý tưởng đột phá bị rơi vào quên lãng, mà trong không ít trường hợp người có ý tưởng đột phá phải hứng chịu búa rìu của tập thể, chịu áp lực chỉ trích, kể cả chịu các tổn thất chính trị. Do đó, cơ chế bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung là một điểm thể hiện tinh thần đổi mới mạnh mẽ của Trung ương lần này. Khi cán bộ có tư tưởng đổi mới, sáng tạo vì cái chung thì tập thể phải nghiêm túc nghiên cứu, thảo luận dân chủ trên tinh thần tôn trọng cái mới, phải xây dựng thể chế, cơ chế để bảo vệ những con người năng động, sáng tạo, dám chịu trách nhiệm trước tập thể về quyết định của mình. Nguyên tắc tập trung dân chủ đòi hỏi khi tập thể đã thông qua thì mọi cá nhân phải phục tùng, ý kiến thiểu số được bảo lưu, nhưng cần bảo lưu có thời hạn. Hết thời hạn bảo lưu theo quy định, các ý kiến khác biệt, mới mẻ của thiểu số cần phải được đưa ra nghiên cứu nghiêm túc, nhất là khi các giải pháp của tập thể không chịu đựng được thử thách của thực tiễn, không được nhân dân đồng tình, hưởng ứng, không đạt kết quả trong thực tế và không như mong muốn.

Phân cấp, phân công được nhấn mạnh trong quan điểm này nhằm làm cho các chủ thể quản lý cán bộ xác định rõ hơn quyền và ràng buộc trách nhiệm, chủ động trong nhiệm vụ của mình, tránh tình trạng ỷ lại, đùn đẩy, thoái thác trách nhiệm ở những việc khó. Tất nhiên, phân công, phân cấp phải gắn với ràng buộc trách nhiệm vào quyền hạn, tăng cường kiểm tra, giám sát, đặc biệt là kiểm soát quyền lực, nếu không quyền lực sẽ bị lạm dụng, dẫn tới tình trạng phân tán, chia cắt trong công tác cán bộ, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, tạo môi trường cho lộng quyền, lạm quyền, tha hóa quyền lực. Kiểm soát quyền lực không phải là vấn đề mới về mặt lý luận, nhưng trong bối cảnh mới hiện nay phải được tổng kết và nghiên cứu có chiều sâu để triển khai có hiệu quả, nhưng nguyên lý chung là ở đâu có quyền lực ở đó phải được kiểm soát, trước hết là kiểm soát bằng thể chế, cơ chế, bằng ràng buộc quyền hạn với trách nhiệm được xác định rõ ràng, nhất là trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy các cấp đối với công tác cán bộ. Công khai, minh bạch, tăng cường trách nhiệm giải trình; có sự giám sát của cơ quan dân cử; xử lý nghiêm các sai phạm, không có vùng cấm, để tạo sức răn đe đối với những người, những nơi có thể xảy ra tham nhũng, tiêu cực, xem thường quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước để lập lại trật tự, kỷ cương, và tất yếu phải kiểm soát quyền lực chặt chẽ, hiệu quả.

Thứ ba, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, thường xuyên đổi mới công tác cán bộ phù hợp với tình hình thực tiễn. Xây dựng đội ngũ cán bộ phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới; thông qua hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng của nhân dân; đặt trong tổng thể của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; gắn với đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, thu hút và trọng dụng nhân tài.

Quan điểm này được tích hợp bởi nhiều luận điểm, trong đó yêu cầu đầu tiên là tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, thường xuyên đổi mới công tác cán bộ phù hợp với tình hình thực tiễn. Đại hội VI của Đảng (12-1986) trong khi khởi xướng đường lối đổi mới toàn diện đã rút ra bài học tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, nhưng tập trung nhiều trên phương diện kinh tế. Lần này, Nghị quyết yêu cầu tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan trong công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ, bởi nhìn lại quá trình thực hiện Chiến lược cán bộ 20 năm qua, có nơi, có lúc xuất hiện tư tưởng chủ quan, duy ý chí, nhất là đổi mới công tác cán bộ chưa đồng bộ, chưa tương thích với đổi mới kinh tế; nhiều cơ chế, chính sách đối với cán bộ chưa phù hợp với cơ chế thị trường như tiền lương chưa tính toán đầy đủ các yếu tố của thị trường, tương quan giữa khu vực công với khu vực tư; tuyển chọn, đề bạt cán bộ có nơi, có lúc chưa thật sự bảo đảm nguyên lý cạnh tranh lành mạnh giữa các ứng viên; các quy luật về nhu cầu, lợi ích, tâm lý của con người chưa được tính toán kỹ và vận dụng hợp lý theo quy luật khách quan trong công tác cán bộ. Hay nói cách khác, khi vận hành kinh tế thị trường thì việc tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan là phải cạnh tranh, nhưng trong công tác cán bộ quá trình thực hiện chưa thể hiện rõ nét tính cạnh tranh theo đúng quy luật này. Tôn trọng quy luật khách quan đòi hỏi công tác cán bộ phải xuất phát từ thực tiễn và quay trở lại thực tiễn làm cơ sở, căn cứ để hoàn thiện lý luận, quan điểm về công tác cán bộ; cảnh giác và phòng ngừa với các biểu hiện chủ quan, duy ý chí và chủ nghĩa quan liêu hay giáo điều trong công tác cán bộ.

Xây dựng đội ngũ cán bộ phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ thời kỳ mới, thông qua thực tiễn và phong trào cách mạng của nhân dân... là vấn đề mang tính nguyên lý của Đảng ta. Trước hết, phải xuất phát từ yêu cầu xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa nhà nước-thị trường-xã hội; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng; giữ vững ổn định chính trị, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ; đối phó với những thách thức từ mặt trái của kinh tế thị trường, toàn cầu hóa và tác động của biến đổi khí hậu, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, nền kinh tế số, kinh tế tri thức, kinh tế xanh...

Lợi ích của nhân dân là căn cứ xuất phát cho sáng tạo, đổi mới của cán bộ; phong trào cách mạng là môi trường cho cán bộ rèn luyện, phấn đấu, đồng thời là nơi kiểm nghiệm, tôn vinh những cán bộ đem lại lợi ích cho nhân dân, được nhân dân ghi nhận, là nơi sàng lọc những cán bộ yếu kém, thoái hóa, biến chất, đi ngược lại lợi ích của nhân dân. Mỗi thời kỳ lịch sử, ứng với nhiệm vụ cách mạng cụ thể, phải có đội ngũ cán bộ tương ứng. Nhiệm vụ bao trùm của thời kỳ cách mạng từ nay đến năm 2030 là đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, và đến năm 2045 trở thành nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, ngày càng phồn vinh và hạnh phúc. Phải bám sát nhiệm vụ cách mạng đó để xây dựng tiêu chuẩn và cơ cấu hợp lý; tổ chức đào tạo, bồi dưỡng và bố trí, sử dụng cán bộ phù hợp; lấy khả năng hoàn thành nhiệm vụ, hiệu quả, sản phẩm cụ thể để đánh giá và sàng lọc cán bộ; lấy phong trào cách mạng của nhân dân làm môi trường rèn luyện, thử thách cán bộ.

Xây dựng đội ngũ cán bộ phải đặt trong tổng thể của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, và giữa chúng có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng có nhiều nội dung, nhưng trung tâm vẫn là cán bộ, đảng viên và xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiệu quả sẽ tác động tích cực, sâu sắc đến xây dựng đội ngũ cán bộ. Chỉ khi có chuyển biến tích cực thật sự trong xây dựng đội ngũ cán bộ, đặc biệt là việc phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ cấp chiến lược, của người đứng đầu cấp ủy các cấp trong phấn đấu, rèn luyện, đấu tranh, ngăn chặn, đầy lùi suy thoái và phòng chống tham nhũng, tiêu cực có hiệu quả thì xây dựng, chỉnh đốn Đảng mới thành công; làm tiền đề cho xây dựng đội ngũ cán bộ trong sạch, vững mạnh. Đảng ta là Đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội bằng các phương thức khác nhau, nhưng xuyên qua mọi phương thức lãnh đạo là đội ngũ cán bộ và đảng viên. Hiệu quả các phương thức lãnh đạo của Đảng phụ thuộc trực tiếp vào cán bộ.

Vì vậy, chất lượng cán bộ được nâng cao sẽ quyết định đến hiệu quả thực hiện các phương thức lãnh đạo cơ bản của Đảng: bằng chủ trương, đường lối thông qua các nghị quyết của Đảng; bằng tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục; bằng nêu gương; bằng tổ chức và đảng viên; bằng kiểm tra, giám sát. Nói một cách khác, các phương thức lãnh đạo của Đảng có phát huy được hay không đều do việc xây dựng, lựa chọn, bố trí cán bộ có đúng đắn, phù hợp hay không; đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng phải gắn kết chặt chẽ, hiệu quả với xây dựng đội ngũ cán bộ. Chỉ khi gắn xây dựng đội ngũ cán bộ với đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng thì mới bảo đảm tính đồng bộ của công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị và phát huy tốt nhất phương thức lãnh đạo của Đảng.

Cán bộ là nhân tố “động” của tổ chức, cho nên, xây dựng đội ngũ cán bộ phải gắn với kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Chỉ trên cơ sở xây dựng bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, không chồng chéo, trùng lắp, phân quyền và phân cấp rõ ràng, rành mạch, mới bảo đảm cho cán bộ thực sự phát huy tinh thần, trách nhiệm, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ.

Trong quá trình vận hành bộ máy, kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, một bộ máy thiết kế bất hợp lý không những không phát huy được đầy đủ năng lực của cán bộ, mà trong không ít trường hợp còn làm hỏng cán bộ.

Thời gian qua, không ít nơi cán bộ đùn đẩy trách nhiệm, làm việc trung bình chủ nghĩa có nguyên nhân là do bộ máy thiết kế trùng dẫm ở bộ phận này hay bộ phận khác; chức năng, nhiệm vụ còn chồng chéo. Không ít tiêu cực, phiền nhiễu, hách dịch, cửa quyền của cán bộ cũng do bộ máy phình to, tạo nên nhiều tầng nấc, không có địa chỉ chịu trách nhiệm cụ thể. Cải cách tiền lương, tạo động lực cho cán bộ cũng rất khó khăn khi bộ máy phình to, biên chế tăng nhanh, chi thường xuyên cao, khó có nguồn lực tài chính cho tăng lương nhằm bảo đảm đời sống cho cán bộ, công chức để họ yên tâm làm việc, cống hiến.

Vì vậy, xây dựng đội ngũ cán bộ, đổi mới công tác cán bộ và kiện toàn, tinh gọn bộ máy, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị phải được tiến hành đồng bộ, đặt trong mối quan hệ hữu cơ, cái này là tiền đề cho cái kia và ngược lại.

Xây dựng đội ngũ cán bộ phải dựa trên cơ sở nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng và thu hút, trọng dụng nhân tài. Thoát ly khỏi quá trình nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài thì có nghĩa là công tác cán bộ chỉ tiến hành phần “ngọn” mà tách rời khỏi phần “gốc” làm nền tảng. Một nền giáo dục tiên tiến, nhân văn, phù hợp và hội nhập sẽ có ý nghĩa tích cực vào việc tạo nguồn cán bộ cho đất nước. Đây là cái nôi nuôi dưỡng, hình thành nhân cách, ý thức trách nhiệm với đất nước, lòng tự tôn dân tộc v.v. ở mỗi con người. Khoa học đã chứng minh rằng, nhiều nhân cách và kỹ năng của con người định hình từ thuở ấu thơ và nền giáo dục đóng góp quan trọng vào hình thành nhân cách và kỹ năng đó, như sử dụng ngoại ngữ, làm việc theo nhóm, ý thức tập thể, xây dựng quan hệ hợp tác liên cá nhân, các giá trị đạo đức căn bản của con người (tình yêu nước, danh dự, tự trọng, dấn thân, đức hy sinh...). Xây dựng đội ngũ cán bộ có mối liên hệ hữu cơ với nền giáo dục quốc dân.

Vì vậy, đổi mới công tác cán bộ phải gắn với cải cách nền giáo dục nước nhà để tạo nguồn nhân lực dồi dào, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao để tuyển chọn, đào tạo, sử dụng, phát huy cán bộ trên nền tảng vững chắc đó. Tất nhiên, không phải có nguồn dồi dào là có cán bộ đáp ứng được yêu cầu, mà chất lượng cán bộ còn tùy thuộc vào khả năng phát hiện, trọng dụng, đào tạo, bồi dưỡng nhân tài. Phải đổi mới căn bản công tác phát hiện, thu hút, trọng dụng nhân tài một cách dân chủ, khoa học, công khai, minh bạch thì mới sử dụng ở mức cao nhất, hiệu quả nhất các tài năng trong xã hội, kể cả người Việt Nam định cư ở nước ngoài.

Thứ tư, quán triệt nguyên tắc về quan hệ giữa đường lối chính trị và đường lối cán bộ; quan điểm giai cấp và chính sách đại đoàn kết rộng rãi trong công tác cán bộ. Xử lý hài hòa, hợp lý mối quan hệ giữa tiêu chuẩn và cơ cấu, trong đó tiêu chuẩn là chính; giữa xây và chống, trong đó xây là nhiệm vụ chiến lược, cơ bản, lâu dài, chống là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên; giữa đức và tài, trong đó đức là gốc; giữa tính phổ biến và đặc thù; giữa kế thừa, đổi mới và ổn định, phát triển; giữa thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân và tập thể.

Yêu cầu trước hết trong quan điểm này là quán triệt nguyên tắc về tính thống nhất giữa đường lối chính trị với đường lối cán bộ. Đường lối cán bộ phải phục tùng đường lối chính trị. Đường lối chính trị vạch ra mục tiêu, nhiệm vụ, phương hướng, con đường và các giải pháp để đạt được mục tiêu của sự nghiệp cách mạng, trong đó có xây dựng đội ngũ cán bộ. Ngược lại, ứng với đường lối chính trị ở từng thời kỳ phải có đường lối cán bộ phù hợp. Yêu cầu cơ bản của đường lối cán bộ là xây dựng được một đội ngũ cán bộ có khả năng hoạch định và tổ chức thực thi đường lối chính trị đạt kết quả tối ưu. Vì vậy, sai lầm trong lựa chọn cán bộ, đặc biệt cán bộ cấp chiến lược, không chỉ làm ảnh hưởng tới hiệu quả khâu tổ chức thực hiện, mà không loại trừ nguy cơ sai lầm về đường lối khi cán bộ là người tham gia hoạch định đường lối. Quán triệt luận điểm này đòi hỏi phải khắc phục các biểu hiện xây dựng cán bộ thoát ly đường lối chính trị, không xuất phát từ mục tiêu, nhiệm vụ chính trị mà định ra tiêu chuẩn, cơ cấu cán bộ, hoặc tuyệt đối hóa cán bộ mà xem nhẹ đường lối chính trị. Điều này không phải không hiện hữu ở nơi này hay nơi khác, cấp này hay cấp khác, nhất là khi chuẩn bị cho đại hội chỉ tập trung lo “nhân sự” mà xem nhẹ chất lượng của đường lối, chủ trương; chuẩn bị nhân sự không gắn với đánh giá khả năng hoạch định đường lối, chủ trương và tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương đó trong thực tiễn.

Xử lý mối quan hệ biện chứng giữa quan điểm giai cấp với thực hiện đại đoàn kết dân tộc trong xây dựng đội ngũ cán bộ là quan điểm nhất quán của Đảng ta từ trước tới nay. Quán triệt quan điểm giai cấp, cố nhiên không chỉ quan tâm đến nguồn gốc xuất thân của cán bộ, mà cơ bản hơn là mọi cán bộ đều phải được giáo dục để thấm nhuần sâu sắc chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; phải được giác ngộ mục tiêu, lý tưởng, sự nghiệp cách mạng của Đảng; phải đứng trên lập trường của Đảng để xem xét, xử lý mọi công việc, kể cả tác phong sinh hoạt đời thường; phải được thử thách, rèn luyện qua thực tiễn để thấu hiểu và thấu cảm đời sống nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm hạnh phúc của chính mình; phải lấy mục tiêu, lý tưởng của Đảng, sự phát triển của đất nước, hạnh phúc của nhân dân làm khát vọng dấn thân, cống hiến và hy sinh; rèn tác phong và lối sống gần gũi, gắn bó với giai cấp công nhân và nhân dân lao động, tẩy trừ các căn bệnh “quan cách mạng” xa cách nhân dân, xa lạ với bản chất của người cán bộ cách mạng.

Đi đôi với quán triệt quan điểm giai cấp là phát huy khối đại đoàn kết dân tộc trong công tác cán bộ, đặc biệt là mở rộng dân chủ để thu hút, trọng dụng nhân tài rộng rãi; đổi mới công tác hiệp thương, bầu cử để thu hút người ngoài Đảng tham gia Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp; mở rộng diện quy hoạch và tổ chức thi tuyển để trọng dụng được cả người trong và ngoài Đảng có tài đức, tâm huyết phấn đấu cho đất nước; bảo đảm liên thông giữa nhân lực khu vực công với khu vực tư; có cơ chế để bảo đảm tỷ lệ cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số, trí thức, văn nghệ sĩ trong các thiết chế lãnh đạo, quản lý; xây dựng cốt cán trong các tôn giáo; có chính sách trọng dụng nhân tài, chuyên gia có trình độ cao không phân biệt thành phần giai cấp, những người có tâm huyết tham gia vào các tổ chức khác nhau để hiến kế, đóng góp trí tuệ, sức lực cho đất nước. Phát huy vai trò đoàn kết, tập hợp của Mặt trận Tổ quốc các cấp trong công tác cán bộ, bao gồm cả tham gia giám sát, phản biện xã hội đối với đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ. Quan trọng nhất là Đảng phải có chủ trương, chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài cả trong nước và ở nước ngoài, cả khu vực công và khu vực tư; có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp, bố trí cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ là người dân tộc thiểu số; xây dựng chỉ tiêu cơ cấu phù hợp; nếu chưa bảo đảm cơ cấu thì phải để trống, bổ sung sau; gắn việc thực hiện chỉ tiêu với trách nhiệm của cấp ủy và người đứng đầu.

Khi xử lý các mối quan hệ lớn như giữa tiêu chuẩn và cơ cấu, xây và chống, đức và tài, quan điểm nêu trên đã định vị được vai trò, tính chất của từng yếu tố trong từng cặp quan hệ, nhất khi thao tác cụ thể như một biện pháp kỹ thuật của công tác cán bộ. Trong giải quyết mối quan hệ giữa cơ cấu và tiêu chuẩn phải xem tiêu chuẩn là chính - quan điểm này tạo cơ sở cho nhận thức và xử lý nhiều bất cập trước đây vì nặng về cơ cấu mà xem nhẹ tiêu chuẩn dẫn tới chất lượng cán bộ không đảm bảo; đặt cơ sở cho đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đáp ứng yêu cầu chuẩn hóa cho các vị trí lãnh đạo, quản lý, đặc biệt với cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số. Trong giải quyết mối quan hệ giữa đức và tài thì đức là gốc, mà đã là gốc thì phải được quan tâm chăm lo đặc biệt nhằm bảo đảm sự vững chắc, bởi nếu nền móng không vững thì mọi cái sẽ lung lay. Nói cách khác, đức bảo đảm cho tài được sử dụng đúng đắn. Cán bộ cấp càng cao thì tiêu chuẩn đạo đức càng phải chuẩn mực, nghiêm ngặt. Không có đức thì không dùng. Bởi tài năng mà thiếu đạo đức càng nguy hiểm khi tài năng đó chỉ sử dụng cho chủ nghĩa cá nhân, gây tổn hại cho sự nghiệp cách mạng. Có đức rồi thì phải chú trọng cả tài năng, bởi nếu như đạo đức bảo đảm cho tài năng được vận hành đúng phương hướng, mang lại giá trị tốt đẹp cho Đảng, cho đất nước, cho nhân dân, thì tài năng bảo đảm cho làm việc hiệu quả, khả năng hoàn thành nhiệm vụ. Trong mối quan hệ giữa xây và chống thì xây là nhiệm vụ chiến lược, cơ bản, lâu dài, chống là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng. Luận điểm này chỉ rõ vai trò, vị trí của cả xây và chống; cái gốc vẫn là lấy xây để tạo khả năng phòng ngừa các biểu hiện suy thoái, tiêu cực, tăng cường sức đề kháng, miễn dịch trước môi trường rất phức tạp; chống để răn đe, ngăn ngừa, cảnh tỉnh những người có nguy cơ mắc sai lầm do lợi dụng cơ chế, chính sách, nhất là khi tiêu cực xã hội còn nhức nhối thì chống phải được xem là nhiệm vụ quan trọng.

Một loạt mối quan hệ khác được đề cập trong quan điểm này như giữa tính phổ biến và đặc thù; giữa kế thừa, đổi mới và ổn định, phát triển; giữa thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân và tập thể. Đây là các mối quan hệ rất cơ bản, nếu không nhận thức thấu đáo và thiếu giải pháp hợp lý, khi thao tác thành biện pháp kỹ thuật rất dễ nghiêng về cực này hay cực kia. Quan hệ giữa tính phổ biến và tính đặc thù chi phối rất lớn đến công tác cán bộ, bản chất là xử lý quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Không chú ý thỏa đáng tính đặc thù thì sẽ không tính toán hết tính tộc người, tính địa phương, yếu tố giới, đặc điểm từng loại cán bộ… trong quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ; còn cường điệu hóa tính đặc thù, xem nhẹ tính phổ biến sẽ dẫn tới chủ nghĩa đặc thù, bất chấp tiêu chuẩn chung, làm suy yếu tổ chức, hạn chế đến chất lượng cán bộ. Khi xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết phải xuất phát từ cái chung, tính phổ biến, nhưng cũng không được bỏ qua cái riêng, tính đặc thù. Một chính sách phù hợp, có sức sống thì phải hội tụ cả tính phổ quát và tính chuyên biệt. Có như vậy mới bảo đảm hài hòa, tiếp nối giữa các độ tuổi cán bộ để tranh thủ được trí tuệ, kinh nghiệm của lớp cán bộ cao niên, nhưng đồng thời cũng phát huy được tài năng, sự táo bạo, khả năng bứt phá của lớp trẻ.

Quan hệ giữa kế thừa, đổi mới và ổn định, phát triển cũng là quan hệ rất cơ bản có ý nghĩa trong công tác cán bộ. Phát triển bền vững vừa là yêu cầu, vừa là mục tiêu hướng tới của đổi mới, làm cho đội ngũ cán bộ ngày càng trưởng thành cả về mặt lượng lẫn mặt chất. Kế thừa, ổn định là điều kiện, tiền đề, môi trường cho đổi mới, sáng tạo và phát triển. Ổn định của đội ngũ cán bộ không đồng nghĩa với trì trệ, bảo thủ mà là trạng thái phát triển trong cân bằng, không dẫn tới rối loạn, bất ổn, giữ vững bản chất cách mạng. Đổi mới là phương thức của phát triển, làm cho đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ luôn cập nhật thực tiễn, bổ sung thêm những năng lượng mới, bản chất là phủ định yếu tố bất hợp lý, cũ kỹ, lạc hậu, kế thừa những hạt nhân hợp lý, sáng tạo nên giá trị mới cho đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ. Kế thừa bảo đảm cho các giá trị của lịch sử, của quá khứ không bị đứt gãy, gián đoạn, mà luôn được thu nhận, tiếp diễn trong hiện tại và tương lai, không vấp phải tình trạng khủng hoảng khi chuyển giao thế hệ lãnh đạo. Đổi mới, phát triển lại là tiền đề cho kế thừa và ổn định; nếu không đổi mới và phát triển mà chỉ dậm chân tại chỗ thì sẽ trở thành lạc lậu, trì trệ, không phù hợp với thời đại.

Quan hệ giữa thẩm quyền, trách nhiệm tập thể và cá nhân là vấn đề rất cốt yếu trong công tác cán bộ, cũng là nội dung chủ yếu của nguyên tắc tập trung dân chủ, trên thực tế còn gặp không ít vướng mắc khi triển khai. Rất phổ biến là trách nhiệm tập thể chung chung, trách nhiệm cá nhân không rõ ràng, nên khi xảy ra các tiêu cực, vi phạm không xác định được cá nhân chịu trách nhiệm. Trách nhiệm tập thể chung chung cũng là môi trường cho cá nhân núp bóng, mượn danh tập thể để hợp thức hóa động cơ cá nhân mà né tránh nguyên tắc, kỷ luật của tổ chức.

Trong khi khắc phục tình trạng vai trò tập thể chung chung, không phải dễ dàng tìm được giải pháp thích hợp mà dễ nhảy từ cực nọ sang cực kia, tức xem nhẹ vai trò tập thể, cá nhân lộng quyền, lạm quyền trong các khâu khác nhau của công tác cán bộ.

Vì vậy, xử lý mối quan hệ giữa thẩm quyền, trách nhiệm tập thể và cá nhân đòi hỏi phải thể chế hóa nguyên tắc tập trung dân chủ thành quy chế, quy định, quy trình để trao quyền cụ thể ở từng khâu, từng mặt đối với cá nhân hay tập thể, ràng buộc trách nhiệm với quyền hạn được giao, khắc phục các kẽ hở cho lộng quyền, lạm quyền hoặc thói vô trách nhiệm trong công tác cán bộ.

Một số thí điểm đặt ra trong Nghị quyết lần này theo hướng tìm tòi, phát huy vai trò, thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân trong công tác cán bộ, đồng thời vẫn giữ vững, tăng cường trách nhiệm của tập thể với quy trình, thủ tục trong công tác cán bộ theo đúng quy định và không xa rời nguyên tắc tập trung dân chủ.

Thứ năm, xây dựng đội ngũ cán bộ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trực tiếp là cấp ủy, tổ chức đảng mà trước hết là người đứng đầu và cơ quan tham mưu của Đảng, trong đó cơ quan tổ chức, cán bộ là nòng cốt. Phát huy mạnh mẽ vai trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội và cơ quan truyền thông, báo chí trong công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó máu thịt với nhân dân; thực sự dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ.

Quan điểm này xác định rõ trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và từng chủ thể đối với xây dựng đội ngũ cán bộ và đổi mới công tác cán bộ; trật tự, vị trí, vai trò của từng chủ thể đối với từng khâu, từng mặt của công tác cán bộ. Trong khi xác định trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, quan điểm này chỉ rõ trách nhiệm trực tiếp là của cấp ủy, tổ chức Đảng, trước hết là người đứng đầu và các cơ quan tham mưu của Đảng làm công tác tổ chức, cán bộ có vai trò nòng cốt. Điều này nhất quán với nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, trách nhiệm trước hết của cấp ủy đảng, tổ chức đảng trong chăm lo xây dựng toàn diện mọi mặt từ công tác tạo nguồn, tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng, luân chuyển cũng như chính sách đối với cán bộ, từ chăm lo phát triển tâm lực đến trí lực, thể lực, được thực hiện thường xuyên trong cả vòng đời của người cán bộ.

Cùng với trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp là phải phát huy mạnh mẽ, đầy đủ vai trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân trong xây dựng đội ngũ cán bộ. Trách nhiệm của Nhà nước thể hiện ở năng lực thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng thành pháp luật để quản lý cán bộ theo pháp luật; thực hiện giám sát tối cao của Quốc hội và giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp đối với cán bộ, công chức, viên chức, góp phần kiểm soát quyền lực; thực hiện các nhiệm vụ tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, bầu cử, thi đua-khen thưởng, quản lý công chức, viên chức theo phân công, phân cấp; huy động nguồn lực và quản lý có hiệu quả nguồn lực đầu tư cho xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, từ nguồn lực cho xây dựng kết cấu hạ tầng-kỹ thuật, đào tạo, bồi dưỡng đến chính sách tiền lương, nhà ở… Nhà nước phải ngày càng làm tốt hơn vai trò thể chế hóa đường lối cán bộ của Đảng, bao gồm từ ghi nhận về mặt lập pháp, thực thi về mặt hành pháp và bảo vệ về mặt tư pháp. Nhà nước trở thành vấn đề trung tâm bảo đảm cho cán bộ có môi trường nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa để trưởng thành lành mạnh, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá; được đầu tư tương xứng với sự cống hiến, phấn đấu vì lợi ích chung; được bảo vệ một cách chính đáng đối diện với nguy cơ rủi ro, bất lợi… Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội có trách nhiệm đoàn kết, tập hợp các tầng lớp nhân dân tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ, bảo đảm đại đoàn kết toàn dân tộc trong công tác cán bộ. Trong điều kiện tăng cường kiểm soát quyền lực, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân phải làm tốt chức năng giám sát và phản biện xã hội, từ phản biện đường lối cán bộ khi ở dạng dự thảo, chuyển tải đầy đủ nguyện vọng, lợi ích của các tầng lớp nhân dân vào đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đến giám sát đội ngũ cán bộ công chức, bao gồm cả hành vi công vụ đến đạo đức, lối sống, bảo đảm cho cán bộ luôn trong sạch, liêm chính, phòng ngừa tha hóa, sa ngã.

Quan điểm này cũng nhấn mạnh đến vai trò của truyền thông, báo chí trong xây dựng đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ. Không phải bây giờ Đảng ta mới thấy vai trò của báo chí, mà trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam, lãnh tụ Hồ Chí Minh và Đảng ta đã rất coi trọng sử dụng báo chí trở thành phương tiện đắc lực hỗ trợ, phục vụ cho công tác cán bộ. Nhưng hiện nay, chúng ta đang đối diện với sự bùng nổ của mạng xã hội, cách mạng công nghệ thông tin phát triển vượt bậc, báo chí kỹ thuật số ngày càng lấn át báo in truyền thống… và tác động hàng ngày, hàng giờ đến đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ. Phải nắm chắc trận địa truyền thông, báo chí, hóa giải các sức ép bất lợi của mạng xã hội, đặc biệt quan tâm tới công tác chính trị tư tưởng, rèn luyện đạo đức, lối sống cho cán bộ. Báo chí và truyền thông phải góp phần làm tốt việc tổng kết thực tiễn, nhất là phát hiện gương điển hình tiên tiến, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá để bảo vệ, tuyên truyền, phổ biến, nhân rộng, tạo ảnh hưởng lan tỏa; phát hiện những tiêu cực trong đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ để tạo dư luận đấu tranh có hiệu quả; hình thành nên dư luận xã hội ủng hộ, cổ vũ cái mới, cái tiến bộ trong đội ngũ cán bộ cũng như phê phán, đấu tranh với những thói hư, tật xấu, tiêu cực, biểu hiện tha hóa quyền lực; đồng thời cũng phải bảo vệ cái đúng, người tốt, người dám xả thân vì dân, vì nước.

Tư tưởng dựa vào dân để xây dựng đội ngũ cán bộ thực chất là việc lấy dân làm gốc, tuy không mới nhưng đặt trong bối cảnh công tác cán bộ ở nơi này hay nơi khác, lúc này hay lúc khác còn tiến hành khép kín, chưa huy động được đầy đủ sự tham gia của nhân dân, tình trạng quan liêu, xa dân, thờ ơ của cán bộ với nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân nhiều nơi đáng báo động, nên nhấn mạnh việc phải dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ trong Nghị quyết lần này lại mang ý nghĩa thời sự cấp bách. Điều đó bắt nguồn từ việc cụ thể hóa những nội dung mới của Nghị quyết Đại hội XII của Đảng là nhân dân tham gia xây dựng Đảng và sự gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân; Đảng chỉ hoàn thành sứ mệnh của mình khi cán bộ, đảng viên được nhân dân tin yêu, ủng hộ, đùm bọc; đường lối của Đảng chỉ trở thành phong trào cách mạng, được hiện thực hóa trong đời sống khi được nhân dân đồng tình, hưởng ứng, mọi phát ngôn và hành động của cán bộ được dân tin và làm theo; dân chỉ tin Đảng khi cán bộ thật sự gương mẫu, có uy tín, có phẩm chất đạo đức tốt và tất cả vì dân, nói đi đôi với làm.

Vì vậy, phải đổi mới nhiều cơ chế, chính sách để khắc phục các căn bệnh xa dân, thờ ơ trước nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân; bảo đảm cho cán bộ, đảng viên gắn bó mật thiết với người dân ở đơn vị công tác, đơn vị chiến đấu, nơi cư trú… bằng việc xác định trách nhiệm, công việc cụ thể; có cơ chế để nhân dân tham gia phản ánh, giám sát, đánh giá cán bộ, công chức, viên chức, đặc biệt là mức độ hài lòng của người dân đối với hành vi công vụ; đổi mới cơ chế tiếp xúc cử tri để nhân dân được trực tiếp phản ánh trung thực nguyện vọng đối với đại biểu dân cử ngay tại khu dân cư một cách thuận lợi nhất cho người dân; hoàn thiện cơ chế, phương thức tiếp nhận, xử lý đơn thư của nhân dân một cách minh bạch theo trách nhiệm giải trình; định hình cơ chế để nhân dân thực sự trực tiếp bãi miễn những đại biểu thoái hóa, biến chất trên đơn vị dân cư mà họ đã bỏ phiếu bầu ra.

Báo chí phải làm tốt định hướng dư luận đối với nhân dân và trở thành một kênh thông tin chính thống phản ánh xã hội, những nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.

Theo: TTXVN

Bình luận