Đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh

Ngày đăng: 18/03/2015 - 08:03

dautranhphongchongthamnhung

1. Đảng và Nhà nước Việt Nam đã coi trọng cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí

Ở Việt Nam, tệ nạn tham nhũng được đánh giá là còn nghiêm trọng, với những biểu hiện tinh vi, phức tạp, xảy ra trên nhiều lĩnh vực, nhiều cấp, nhiều ngành, gây bức xúc trong xã hội, là thách thức lớn đối với Đảng và Nhà nước, là nguyên nhân dẫn tới sự thịnh, suy của chế độ. Để giữ vững ổn định chính trị; phát triển kinh tế, xã hội; góp phần xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra nhiều chủ trương, giải pháp phòng, chống tham nhũng, lãng phí.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí là một nhiệm vụ trọng tâm của công tác xây dựng Đảng, nhiệm vụ trực tiếp, thường xuyên của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Các cấp ủy và tổ chức đảng phải nhận thức sâu sắc tính cấp thiết, lâu dài, phức tạp và khó khăn của cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí; có quyết tâm chính trị cao, đấu tranh kiên quyết, kiên trì, liên tục; sử dụng sức mạnh tổng hợp của tổ chức đảng, bộ máy nhà nước, mặt trận, các đoàn thể và nhân dân. Các cấp ủy và tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo cấp cao phải thực sự tiên phong, gương mẫu trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí.

Để cụ thể hóa quan điểm của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X về phòng, chống tham nhũng, lãng phí, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 Khóa X đã đưa ra mục tiêu: “Ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng, lãng phí; tạo bước chuyển rõ rệt để giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội; củng cố lòng tin của nhân dân; xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh; đội ngũ cán bộ, công chức kỷ cương, liêm chính”1. Nghị quyết Trung ương 3 cũng đã chỉ rõ các quan điểm chỉ đạo trong công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Đó là:

- Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng; phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị và nhân dân; thực hiện đồng bộ các giải pháp về chính trị, tư tưởng, tổ chức, hành chính, kinh tế, hình sự.

- Phòng, chống tham nhũng, lãng phí phải bảo đảm giữ vững ổn định chính trị, xã hội; phục vụ phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh.

- Tích cực, chủ động phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng. Gắn phòng, chống tham nhũng, lãng phí với xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

- Phòng, chống tham nhũng, lãng phí là nhiệm vụ vừa cấp bách vừa lâu dài; phải tiến hành kiên quyết, kiên trì, liên tục với những bước đi vững chắc, tích cực và có trọng tâm, trọng điểm.

- Kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, chú trọng tổng kết thực tiễn và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của quốc tế trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí.

Để đạt các mục tiêu đã đề ra, Nghị quyết Trung ương 3 Khóa X đã đưa ra 10 nhóm giải pháp: tuyên truyền, giáo dục về công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; nâng cao tính tiên phong, gương mẫu của tổ chức đảng, đảng viên và vai trò của chi bộ; hoàn thiện công tác cán bộ; công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị; hoàn thiện cơ chế, chính sách về quản lý kinh tế, xã hội; nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử các vụ tham nhũng; thực hiện tốt công tác truyền thông về phòng, chống tham nhũng, lãng phí; xây dựng các cơ quan, đơn vị chuyên trách về phòng, chống tham nhũng; tăng cường giám sát của nhân dân và cơ quan dân cử; hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng tiếp tục khẳng định phòng, chống tham nhũng, lãng phí là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài. Mọi cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu phải gương mẫu trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Các giải pháp được Đại hội đưa ra là: tiếp tục hoàn thiện thể chế; chú trọng các biện pháp phòng ngừa tham nhũng, lãng phí (công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị; cải cách hành chính; minh bạch tài sản, thu nhập; cải cách chính sách tiền lương, thu nhập, nhà ở của cán bộ, công chức; xử lý trách nhiệm người đứng đầu khi xảy ra tham nhũng, lãng phí); tăng cường công tác phát hiện, xử lý các hành vi tham nhũng, lãng phí; khuyến khích, bảo vệ người đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí; xử lý nghiêm những người bao che, ngăn cản việc chống tham nhũng, lãng phí hoặc lợi dụng chống tham nhũng để gây mất đoàn kết nội bộ.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XI với nội dung “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” đã xác định phòng, chống tham nhũng, lãng phí là một trong các giải pháp quan trọng trong công tác xây dựng Đảng. Một trong các giải pháp mà Nghị quyết đưa ra là: sửa đổi, bổ sung Luật phòng, chống tham nhũng; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử; nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan, đơn vị chuyên trách phòng, chống tham nhũng; xét xử nghiêm những vụ án tham nhũng, nhất là những vụ nghiêm trọng, phức tạp, được nhân dân quan tâm.

Kết luận của Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XI, trên cơ sở phân tích, đánh giá những kết quả đạt được cũng như những hạn chế trong công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, đã yêu cầu các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị và cán bộ, đảng viên cần quán triệt, thực hiện có hiệu quả các chủ trương, giải pháp về phòng, chống tham nhũng, lãng phí, với tinh thần kiên quyết, kiên trì, liên tục, đúng pháp luật, để sớm khắc phục những hạn chế, yếu kém, tạo chuyển biến rõ rệt trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí.

Để thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng về phòng, chống tham nhũng, lãng phí, Quốc hội đã ban hành Luật phòng, chống tham nhũng; Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Chủ tịch nước ký quyết định phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về Chống tham nhũng. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 107 văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến công tác phòng, chống tham nhũng và thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020; Kế hoạch thực hiện Công ước của Liên hợp quốc về Chống tham nhũng. Các bộ, ngành chức năng cũng đã xây dựng, ban hành nhiều văn bản theo thẩm quyền nhằm cụ thể hoá các quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng và thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Đến nay, về cơ bản hệ thống các quy định của Đảng và Nhà nước về phòng, chống tham nhũng, lãng phí đã tương đối đầy đủ, cơ bản bảo đảm cơ sở chính trị, pháp lý cho công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Nhiều tổ chức nước ngoài và bạn bè quốc tế đánh giá cao nỗ lực của Việt Nam trên lĩnh vực này.

2. Quá trình triển khai thực hiện các quy định của Đảng, Nhà nước; công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí đã có những chuyển biến tích cực cả về nhận thức, hành động và đạt được những kết quả bước đầu

2.1. Công tác tuyên truyền, giáo dục về phòng, chống tham nhũng, lãng phí thường xuyên được quan tâm thực hiện, gắn với phong trào “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”

Đề án đưa nội dung phòng, chống tham nhũng vào chương trình giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng đã được phê duyệt và triển khai thực hiện. Các cơ quan chức năng đã tổ chức gặp mặt, biểu dương, tôn vinh các cá nhân có thành tích xuất sắc trong công tác phòng, chống tham nhũng; xây dựng và phát sóng phim tư liệu, phóng sự truyền hình về chủ đề phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Số lượng các tin, bài về phòng, chống tham nhũng, lãng phí trên các phương tiện thông tin đại chúng ngày càng tăng. Thời gian qua, trung bình mỗi năm có khoảng 5,2 triệu lượt người được tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về phòng, chống tham nhũng, lãng phí; 3.500 tin, bài về phòng, chống tham nhũng, lãng phí được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng. Những hoạt động tuyên truyền, giáo dục về phòng, chống tham nhũng, lãng phí đã góp phần tạo sự chuyển biến về nhận thức và ý thức trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể, cán bộ, đảng viên và nhân dân trong công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí.

2.2. Thực hiện các giải pháp phòng ngừa tham nhũng, lãng phí

Các cấp ủy, tổ chức đảng đã quan tâm chỉ đạo giáo dục, rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống cho đảng viên; xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh; chú trọng kiểm tra, giám sát đảng viên trong việc thực hiện các quy định của Đảng, Nhà nước về phòng, chống tham nhũng, lãng phí; thực hiện nghiêm quy định về những điều đảng viên không được làm; giữ mối liên hệ thường xuyên với cấp ủy nơi cư trú. Một số tỉnh ủy, thành ủy đã chỉ đạo các tổ chức đảng, đảng viên ký cam kết không tham nhũng và không để xảy ra tham nhũng, lãng phí; đây được xem là một trong các tiêu chí đánh giá chất lượng tổ chức đảng, đảng viên hàng năm. Đa số đảng viên đã chú ý đến việc tự tu dưỡng bản thân, gương mẫu chấp hành các quy định của Đảng, Nhà nước về phòng, chống tham nhũng, lãng phí.

Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương đẩy mạnh việc công khai, minh bạch trong hoạt động, tập trung vào các lĩnh vực nhạy cảm dễ xảy ra tham nhũng, lãng phí, như: đầu tư xây dựng cơ bản, quản lý đất đai, sử dụng ngân sách, quản lý và sử dụng tài sản công, quản lý và khai thác khoáng sản, công tác tổ chức - cán bộ, công tác thanh tra, kiểm toán. Các hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn tại diễn đàn Quốc hội được truyền hình trực tiếp để người dân theo dõi, giám sát. Trên cơ sở quy định của pháp luật về phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí, Chính phủ và nhiều bộ, ngành, địa phương đã tổ chức họp báo theo định kỳ để cung cấp thông tin cho báo chí; đăng tải các văn bản trên cổng thông tin điện tử; tổ chức các buổi giao lưu trực tuyến với người dân, doanh nghiệp để cung cấp thông tin và giải đáp những thắc mắc về cơ chế, chính sách, quy định của pháp luật. Qua đó đã tạo điều kiện thuận lợi để người dân, doanh nghiệp, các cơ quan, tổ chức nắm bắt thông tin cũng như giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước.

Để công khai, dân chủ trong công tác cán bộ, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã có quy định về quản lý cán bộ, đảng viên theo hướng công khai, minh bạch, phân cấp mạnh cho cơ sở và tăng quyền hạn cho người đứng đầu. Luật cán bộ, công chức năm 2008, Luật viên chức năm 2010 đã bổ sung những cơ sở pháp lý quan trọng cho việc công khai, minh bạch trong tuyển dụng, quản lý cán bộ, công chức, viên chức. Do vậy, công tác quản lý cán bộ của các cấp ủy, tổ chức đảng ngày càng công khai, minh bạch, nhất là việc tuyển dụng, bổ nhiệm cán bộ, công chức.

Để nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí, Chính phủ đã ban hành Nghị định quy định về xử lý trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra tham nhũng; Nghị định quy định trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị và trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Bộ Nội vụ ban hành hướng dẫn việc xử lý trách nhiệm của người đứng đầu khi để xảy ra tham nhũng trong các đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước, tổ chức xã hội, xã hội - nghề nghiệp có sử dụng ngân sách, tài sản của Nhà nước. Nhiều bộ, ngành, địa phương đã ban hành quy định về xử lý trách nhiệm của người đứng đầu; tiến hành kiểm tra trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong phòng, chống tham nhũng. Thời gian qua, trung bình mỗi năm có khoảng 135 người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu bị xử lý vì thiếu trách nhiệm để xảy ra tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách. Việc làm này có tác dụng răn đe, đề cao trách nhiệm của người đứng đầu trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí.

Thực hiện các quy định của pháp luật về minh bạch tài sản, thu nhập, đến nay đã có trên 1 triệu người kê khai tài sản, thu nhập. Trong những năm đầu, việc thực hiện còn có những khó khăn, vướng mắc. Với việc tăng cường hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra của cơ quan chức năng, việc kê khai tài sản đã có tiến bộ rõ rệt và dần đi vào nề nếp. Hầu hết đối tượng thuộc diện kê khai đã kê khai tài sản, thu nhập theo quy định. Việc kê khai tài sản, thu nhập đã trở thành hoạt động bình thường, tâm lý e ngại phải kê khai tài sản, thu nhập đã dần được khắc phục; ý thức trách nhiệm của đảng viên, cán bộ, công chức về minh bạch tài sản, thu nhập được nâng cao; giúp cho công tác quản lý cán bộ, đảng viên được chặt chẽ hơn. Bước đầu hình thành hệ thống cơ sở dữ liệu về tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn.

Việc xây dựng và tổ chức thực hiện quy tắc ứng xử, quy tắc đạo đức nghề nghiệp, chuyển đổi vị trí công tác cán bộ, công chức được quan tâm thực hiện. Trên cơ sở quy định của Bộ Chính trị, Luật phòng, chống tham nhũng, Luật cán bộ, công chức và Luật viên chức về những điều đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức không được làm, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quy định về thời hạn không được kinh doanh trong lĩnh vực có trách nhiệm quản lý đối với những người là cán bộ, công chức, viên chức sau khi thôi giữ chức vụ; về việc tặng quà, nhận quà tặng và nộp lại quà tặng của cán bộ, công chức; Bộ Nội vụ ban hành quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức chính quyền địa phương. Đến nay, hầu hết các bộ, ngành, địa phương đã ban hành và tổ chức thực hiện quy tắc ứng xử của đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức trong thi hành nhiệm vụ, công vụ và trong quan hệ xã hội; thường xuyên kiểm tra việc thực hiện quy tắc ứng xử tại các cơ quan, tổ chức, đơn vị để chấn chỉnh các sai phạm.

Trên cơ sở quy định của Chính phủ về danh mục các vị trí công tác và thời hạn định kỳ chuyển đổi vị trí công tác đối với cán bộ, công chức, viên chức, đến nay, 100% các cơ quan, tổ chức ở Trung ương đã hoàn thành việc xây dựng và ban hành danh mục các vị trí công tác cần phải chuyển đổi theo quy định của pháp luật. Thời gian qua, trung bình mỗi năm có khoảng 29.400 người được chuyển đổi vị trí công tác nhằm phòng ngừa tham nhũng.

Cải cách hành chính và đổi mới công nghệ quản lý: thực hiện Đề án đơn giản hóa thủ tục hành chính, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết thông qua phương án đơn giản hóa thủ tục hành chính, trên nguyên tắc cắt giảm gánh nặng hành chính, tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp. Các bộ, ngành, địa phương cũng đã triển khai mạnh mẽ công tác cải cách thủ tục hành chính; công bố bộ thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết; tiếp tục rà soát, đơn giản hóa và công khai thủ tục hành chính ở tất cả các ngành, lĩnh vực theo quy định của Chính phủ về kiểm soát thủ tục hành chính; thực hiện có hiệu quả việc giải quyết thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông, một cửa liên thông hiện đại; tăng cường áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO trong quản lý hành chính.

Các bộ, ngành, địa phương quan tâm rà soát, ban hành, sửa đổi, bổ sung các quy định về chế độ, định mức, tiêu chuẩn, quy chế chi tiêu nội bộ, nhất là các lĩnh vực quan trọng như tài chính, đầu tư xây dựng, quản lý, sử dụng tài sản công…, qua đó nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng kinh phí, tài sản của Nhà nước. Thời gian qua, trung bình mỗi năm cả nước đã rà soát được khoảng hơn 9.800 văn bản, ban hành mới hơn 2.300 văn bản; sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hơn 1.500 văn bản quy định về chế độ, định mức, tiêu chuẩn. Nhiều văn bản quy định về chế độ, định mức, tiêu chuẩn trong quản lý, sử dụng ngân sách, tài sản của Nhà nước, công sở; quản lý đầu tư xây dựng cơ bản và hoạt động mua sắm công; cổ phần hoá và quản lý doanh nghiệp nhà nước... đã được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hơn.

2.3. Phát hiện và xử lý các hành vi tham nhũng

Trong nhiệm kỳ Đại hội X, các cấp ủy đảng đã kiểm tra hơn 1 triệu đảng viên, phát hiện gần 12 nghìn đảng viên vi phạm, thi hành kỷ luật gần 3 nghìn trường hợp; kiểm tra trên 180 nghìn tổ chức đảng, phát hiện hơn 6 nghìn tổ chức đảng có vi phạm, xử lý kỷ luật 163 tổ chức. Qua kiểm tra đã phát hiện một số cấp ủy, tổ chức đảng đã để xảy ra vi phạm nghiêm trọng trong quản lý, sử dụng đất đai; đã thi hành kỷ luật một số cán bộ chủ chốt, có trường hợp bị truy cứu trách nhiệm hình sự. ủy ban Kiểm tra Trung ương đã xử lý hoặc kiến nghị xử lý kỷ luật 4 ủy viên Trung ương Đảng, 17 bí thư, phó bí thư, ủy viên ban cán sự đảng ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, ban cán sự đảng bộ, ngành Trung ương; 02 bí thư đảng ủy, chủ tịch hội đồng quản trị tập đoàn kinh tế nhà nước.

Thanh tra Chính phủ, thanh tra các bộ, ngành, địa phương và Kiểm toán Nhà nước đã tăng cường các cuộc thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, tập trung vào các lĩnh vực nhạy cảm, như: quản lý đất đai, quản lý và sử dụng vốn, tài sản trong các doanh nghiệp nhà nước, đầu tư xây dựng cơ bản, thuế, tài chính, ngân hàng, cổ phần hóa doanh nghiệp. Thời gian qua, trung bình mỗi năm ngành thanh tra và các cấp, các ngành đã triển khai khoảng 12.500 cuộc thanh tra, kiểm tra; Kiểm toán Nhà nước tiến hành gần 150 cuộc kiểm toán. Qua đó, phát hiện nhiều tổ chức, cá nhân vi phạm, kiến nghị xử lý theo quy định của pháp luật. Kết quả nêu trên cho thấy hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm toán đã góp phần quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả quản lý tài chính, ngân sách, vốn, tài sản công; ngăn ngừa, phát hiện và xử lý sai phạm, tham nhũng, lãng phí.

Công tác điều tra, truy tố, xét xử tội phạm về tham nhũng được quan tâm chỉ đạo thực hiện. Thời gian qua, trung bình mỗi năm, các cơ quan điều tra trong cả nước đã khởi tố, điều tra khoảng 290 vụ/630 bị can về các tội danh tham nhũng. Nhiều vụ án tham nhũng nghiêm trọng đã được phát hiện, xử lý theo quy định của pháp luật. Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng đã lựa chọn một số vụ án tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp, kéo dài để tập trung chỉ đạo điều tra, xử lý dứt điểm, bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật. Việc tăng cường phát hiện, điều tra, xử lý nghiêm minh, kịp thời các vụ án tham nhũng có tác dụng răn đe, phòng ngừa các hành vi tham nhũng, được nhân dân đồng tình, ủng hộ.

2.4. Tổ chức và hoạt động của các cơ quan, đơn vị chuyên trách về phòng, chống tham nhũng

Thực hiện Nghị quyết của ủy ban Thường vụ Quốc hội, Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng đã được thành lập, do Thủ tướng Chính phủ làm Trưởng Ban; ban chỉ đạo các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương do chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương làm trưởng ban chỉ đạo. Quá trình hoạt động, Ban Chỉ đạo Trung ương, ban chỉ đạo cấp tỉnh về phòng, chống tham nhũng đã đạt được những kết quả tích cực trong chỉ đạo, phối hợp, kiểm tra, đôn đốc công tác phòng, chống tham nhũng. Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng đã thể hiện được vai trò là trung tâm trong chỉ đạo, điều hành công tác phòng, chống tham nhũng trong phạm vi cả nước.

Tuy nhiên, trước yêu cầu công tác phòng, chống tham nhũng trong tình hình mới, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XI đã quyết định thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng trực thuộc Bộ Chính trị, do Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam làm Trưởng Ban. Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng có 16 thành viên, với chức năng chỉ đạo, phối hợp, kiểm tra, đôn đốc công tác phòng, chống tham nhũng trong phạm vi cả nước. ở các địa phương không tổ chức ban chỉ đạo về phòng, chống tham nhũng; tỉnh ủy, thành ủy trực tiếp lãnh đạo công tác phòng, chống tham nhũng.

Bộ Chính trị cũng đã quyết định thành lập Ban Nội chính Trung ương, có chức năng tham mưu cho Ban Chấp hành Trung ương mà trực tiếp và thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư về chủ trương, chính sách lớn thuộc lĩnh vực nội chính và phòng, chống tham nhũng và là cơ quan thường trực của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng; ban nội chính các tỉnh, thành ủy trực thuộc Trung ương, có chức năng tham mưu cho các tỉnh ủy, thành ủy về công tác nội chính và phòng, chống tham nhũng. Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ được giao, Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, Ban Nội chính Trung ương đã được kiện toàn về tổ chức và hoạt động. Ban nội chính các tỉnh, thành ủy trực thuộc Trung ương đang được khẩn trương thành lập.

Cục Chống tham nhũng thuộc Thanh tra Chính phủ, Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng thuộc Bộ Công an (C48) và Vụ Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án tham nhũng thuộc Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (Vụ 1B) đã được thành lập và đi vào hoạt động từ năm 2007. Các đơn vị này đang từng bước khẳng định vai trò nòng cốt trong phát hiện và xử lý các vụ việc, vụ án tham nhũng.

2.5. Vai trò, trách nhiệm của các cơ quan dân cử và xã hội trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí được tăng cường

Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thành lập các đoàn giám sát công tác phòng, chống tham nhũng tại một số bộ, ngành, địa phương. Hằng năm, Quốc hội đều yêu cầu Chính phủ báo cáo về công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; các đại biểu Quốc hội có nhiều ý kiến chất vấn các thành viên Chính phủ về công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Trong các kỳ họp cuối năm, hội đồng nhân dân cấp tỉnh đều yêu cầu ủy ban nhân dân cùng cấp báo cáo về công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Trong chương trình giám sát của hội đồng nhân dân các địa phương luôn có nội dung về công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí.

Ủy ban Mặt trận Tổ quốc các cấp và các tổ chức thành viên của Mặt trận, nhất là Hội Cựu chiến binh, Hội Nông dân, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã tăng cường phối hợp với các cơ quan nhà nước trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí; có những đóng góp quan trọng trong công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật; tham gia giám sát các hoạt động về phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Trong tổ chức hiệp thương bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc các cấp đã đề nghị đưa ra khỏi danh sách những ứng cử viên vi phạm pháp luật, có biểu hiện tham nhũng, tiêu cực, lãng phí.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí vẫn chưa đạt yêu cầu và mục tiêu đề ra là ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng, lãng phí. Tham nhũng vẫn còn nghiêm trọng, với những biểu hiện tinh vi, phức tạp, xảy ra trên nhiều lĩnh vực, nhiều cấp, nhiều ngành, nhất là trong các lĩnh vực: quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên, khoáng sản; đầu tư xây dựng cơ bản; quản lý ngân sách; thu thuế, phí; quản lý, sử dụng vốn, tài sản trong doanh nghiệp nhà nước; tín dụng, ngân hàng; công tác cán bộ; quan hệ giữa các cơ quan nhà nước với người dân, doanh nghiệp..., gây bức xúc trong xã hội và là thách thức lớn đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước.

Nguyên nhân cơ bản của những hạn chế, yếu kém nêu trên là do không ít cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền và người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị chưa thực hiện tốt trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống tham nhũng. Vai trò của nhiều chi bộ, tổ chức cơ sở đảng còn mờ nhạt; một số cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cấp, các ngành chưa nêu gương về đạo đức, lối sống, giảm sút sức chiến đấu và thiếu kiên quyết trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Cơ chế, chính sách về quản lý kinh tế - xã hội trên nhiều lĩnh vực vẫn còn sơ hở, bất cập; một số quy định thiếu nhất quán, thiếu chặt chẽ, vẫn còn tình trạng “xin - cho”.

3. Những nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm

Để khắc phục những hạn chế trong công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định trong thời gian tới cần tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chủ trương, giải pháp về phòng, chống tham nhũng, lãng phí được nêu trong Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3, Khóa X, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4, Khóa XI, Kết luận Hội nghị Trung ương 5, Khóa XI, với tinh thần kiên quyết, kiên trì, liên tục, đúng pháp luật. Trong đó cần tập trung vào các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sau:

Một là, nâng cao vai trò, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền và người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị phải thật sự coi công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí là một nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên và tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện.

Các cấp ủy phải quản lý chặt chẽ đảng viên, cán bộ; thường xuyên kiểm tra, nhắc nhở, ngăn ngừa và phát hiện cán bộ, đảng viên vi phạm; thực hiện việc công khai, minh bạch hoạt động của các cơ quan, đơn vị, cán bộ, đảng viên, nhất là trong những lĩnh vực dễ xảy ra tiêu cực, tham nhũng, lãng phí. Cơ quan kiểm tra của Đảng phối hợp chặt chẽ với các cơ quan có chức năng phòng, chống tham nhũng của Nhà nước để kiểm tra, giám sát, phát hiện, xử lý kịp thời và công khai kết quả xử lý tổ chức, cán bộ, đảng viên có vi phạm.

Hai là, tiếp tục hoàn thiện thể chế về quản lý kinh tế - xã hội để phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Sớm sửa đổi, bổ sung Luật đất đai và pháp luật liên quan đến quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên, khoáng sản. Hoàn thiện các quy định để quản lý, kiểm soát chặt chẽ việc thu, chi ngân sách; việc chi tiêu công, nhất là mua sắm và đầu tư công; các khoản chi thường xuyên; các định mức, tiêu chuẩn trong sản xuất, tiêu dùng; việc chi phí hội nghị, lễ hội, tiếp khách, đi công tác nước ngoài.

Hoàn thiện thể chế quản lý doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn của Nhà nước. Đẩy mạnh thực hiện chủ trương tái cấu trúc các doanh nghiệp nhà nước. Hoàn thiện cơ chế, chính sách để kiểm soát chặt chẽ hoạt động tín dụng, đầu tư xây dựng, nhất là những hoạt động dễ phát sinh tiêu cực, tham nhũng. Đẩy mạnh việc thanh toán không dùng tiền mặt. Tăng cường cải cách thủ tục hành chính theo hướng đơn giản, công khai, minh bạch trong giao dịch, giao tiếp ở các lĩnh vực dễ xảy ra tiêu cực, tham nhũng.

Ba là, tiếp tục hoàn thiện và thực hiện nghiêm cơ chế, chính sách về công tác tổ chức, cán bộ để phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Thực hiện dân chủ, công khai, minh bạch trong công tác cán bộ. Có quy định cụ thể để điều chuyển, thay thế những cán bộ lãnh đạo, quản lý có nhiều dư luận xấu phản hồi, biểu hiện tham nhũng, lãng phí, uy tín giảm sút, không đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Quy định cụ thể và thực hiện chủ trương bố trí một số chức danh cán bộ ở cấp tỉnh, cấp huyện không phải là người địa phương.

Thực hiện nghiêm các quy định về minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức. Nghiên cứu ban hành quy định về kiểm soát thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn; quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức trong việc cưới, việc tang, mừng nhà mới… Từng bước thực hiện chế độ tiền lương theo hướng bảo đảm cho cán bộ, công chức, viên chức có nguồn thu nhập chủ yếu bằng lương, sống bằng lương và có mức sống khá trong xã hội.

Bốn là, tiếp tục hoàn thiện thể chế và tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử các hành vi tham nhũng, lãng phí. Khẩn trương hoàn thiện các quy định về giám định tư pháp, nhất là giám định tài chính, giám định chất lượng công trình đầu tư xây dựng. Nghiên cứu áp dụng các biện pháp cần thiết để hạn chế khả năng đối phó của đối tượng có dấu hiệu tham nhũng, lãng phí. Sửa đổi pháp luật hình sự theo hướng tăng hình thức phạt tiền, miễn hoặc giảm hình phạt khác đối với những đối tượng có hành vi tham nhũng nhưng đã chủ động khai báo, khắc phục hậu quả. Có quy định nhằm hạn chế tối đa việc cho bị can được tại ngoại trong quá trình điều tra hành vi tham nhũng và việc áp dụng hình phạt tù, nhưng cho hưởng án treo đối với đối tượng phạm tội tham nhũng.

Bên cạnh việc tích cực, chủ động phòng ngừa, trong thời gian trước mắt cần đẩy mạnh hơn nữa việc phát hiện, xử lý nghiêm các hành vi tham nhũng, lãng phí. Đẩy nhanh tiến độ xử lý các vụ việc, vụ án tham nhũng, lãng phí nghiêm trọng, phức tạp mà dư luận xã hội quan tâm. Tập trung kiểm tra, thanh tra, kiểm toán đối với một số lĩnh vực trọng điểm, như quản lý, sử dụng đất đai, khai thác khoáng sản; đầu tư, mua sắm công; thu, chi ngân sách; quản lý tài sản công; tín dụng ngân hàng và công tác cán bộ.

Tăng cường kiểm tra, giám sát việc thanh tra, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ việc, vụ án tham nhũng. Tăng cường công khai, minh bạch trong hoạt động và bảo đảm sự liêm chính trong đội ngũ cán bộ các cơ quan thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử.

Năm là, tăng cường hoạt động giám sát của Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp đối với hoạt động phòng, chống tham nhũng, lãng phí, trước hết là giám sát hoạt động của các cơ quan có chức năng phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Có biện pháp bảo đảm cho hoạt động giám sát của Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp có hiệu lực cao hơn.

Phát huy tốt hơn vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, của cộng đồng và nhân dân trong việc phát hiện, đấu tranh với những hiện tượng tham nhũng, lãng phí. Có biện pháp bảo vệ an toàn và kịp thời biểu dương, khen thưởng những cán bộ, đảng viên, người dân dũng cảm tố cáo, phát hiện hành vi tham nhũng, lãng phí và những tập thể, cá nhân có thành tích đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí. Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục và có chính sách truyền thông đúng đắn, phát huy vai trò và trách nhiệm của báo chí trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí.

Sáu là, tiếp tục củng cố về tổ chức, nâng cao năng lực hoạt động của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng; Ban Nội chính Trung ương - cơ quan thường trực của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng; ban nội chính các tỉnh, thành ủy trực thuộc Trung ương - cơ quan tham mưu cho cấp ủy địa phương về công tác nội chính và phòng, chống tham nhũng; các đơn vị chuyên trách chống tham nhũng thuộc Thanh tra Chính phủ, Bộ Công an và Viện Kiểm sát nhân dân tối cao.

Phạm Anh Tuấn

Phó Trưởng Ban Nội chính Trung ương

Trích trong “Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh trong tình hình mới - Kinh nghiệm Trung Quốc, kinh nghiệm Việt Nam”,

Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2013.

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Khóa X, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2006, tr. 13-14.



Bình luận