Tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân trong giai đoạn hiện nay

Ngày đăng: 02/12/2016 - 08:12

Mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân - giữa Đảng lãnh đạo với nhân dân làm chủ, là mối quan hệ chính trị cơ bản trong đời sống chính trị, xã hội Việt Nam. Mối quan hệ này có ý nghĩa quyết định đối với sự tồn tại, phát triển của Đảng và chế độ xã hội ở nước ta hiện nay.

dang va nhan dan1511

Nhận thức được tầm quan trọng của mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (tháng 1-2016) xác định một trong những nhiệm vụ tổng quát của 5 năm tới là xử lý tốt mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo với nhân dân làm chủ. Và, một kinh nghiệm cơ bản đúc kết sau 30 năm đổi mới có ý nghĩa tăng cường quan hệ giữa Đảng với nhân dân, được Đảng chỉ ra là: “Đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm “dân là gốc”, vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân”1.

Dưới góc độ triết học chính trị, mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo với nhân dân làm chủ, phản ánh mối quan hệ giữa hai chủ thể quyền lực khác nhau. Đó là quyền lực lãnh đạo chính trị của Đảng với quyền lực làm chủ đất nước của nhân dân. Trong đó, nhân dân với tư cách là chủ thể quyền lực tối cao về mọi mặt của đất nước (được quy định trong tất cả các Hiến pháp Việt Nam kể từ Hiến pháp năm 1946, đến Hiến pháp năm 2013), ủy quyền cho Đảng lãnh đạo chính trị đối với Nhà nước và xã hội. Nhân dân chỉ ủy quyền cho Đảng, khi Đảng “một lòng, một dạ” phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chỉ trong đấu tranh và công tác hằng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”2.

Nhân dân là lực lượng vật chất to lớn, không có nhân dân, Đảng không có lực lượng để lãnh đạo - nhân dân là cội nguồn tạo nên sức mạnh của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Khi nhân dân giúp đỡ ta nhiều thì thành công nhiều, giúp đỡ ta ít thì thành công ít, giúp đỡ ta hoàn toàn thì thắng lợi hoàn toàn”3. Quyền làm chủ của nhân dân tỷ lệ thuận với quyền lãnh đạo chính trị của Đảng. Niềm tin của nhân dân đối với Đảng là thước đo uy tín, hiệu quả lãnh đạo chính trị của Đảng và có ý nghĩa quyết định đối với sự tồn tại, phát triển của Đảng. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, niềm tin của nhân dân đối với Đảng, cũng là uy tín của Đảng đối với nhân dân được hình thành và giữ vững, khi nhân dân thấy Đảng là một tổ chức “trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất”; khi mọi hoạt động của Đảng “không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân”.

Trong quan hệ với nhân dân, Đảng với tư cách lãnh đạo chính trị. Sự lãnh đạo của Đảng đối với nhân dân là nhằm thực hiện những công việc của chính bản thân quần chúng nhân dân, là “lấy tài dân, sức dân để làm những công việc có lợi cho dân”. Sự lãnh đạo của Đảng suy cho cùng là hướng tới bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân trên một đất nước độc lập, thống nhất.

Hiến pháp năm 2013, quy định: Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng chủ yếu là quá trình vận động nhân dân và định hướng phát triển xã hội; là “quá trình chủ yếu hướng vào thức tỉnh hành vi con người, định hướng hoạt động của con người và xã hội”4.

Đảng lãnh đạo nhân dân không phải bằng mệnh lệnh hành chính, áp đặt, mà bằng thuyết phục, thu phục, động viên và tổ chức nhân dân thực hiện quan điểm, đường lối của Đảng, nhằm mang lại lợi ích ngày càng nhiều hơn cho nhân dân; Đảng lãnh đạo nhân dân là định hướng và tạo động lực để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình. Đảng lấy uy tín của mình là một Đảng có “đạo đức và văn minh” để thuyết phục quần chúng nhân dân đi theo và đồng tình thực hiện các cương lĩnh, đường lối của Đảng. Đảng lãnh đạo nhân dân, và muốn lãnh đạo cho thật tốt, theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thì “Việc gì cũng hỏi ý kiến dân chúng, cùng dân chúng bàn bạc. Giải thích cho dân chúng hiểu rõ. Được dân chúng đồng ý. Do dân chúng vui lòng ra sức làm”5. Sức mạnh và hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với nhân dân phụ thuộc vào mối liên hệ của Đảng với nhân dân, phụ thuộc vào niềm tin và sự đồng tình ủng hộ của nhân dân đối với Đảng. Đảng không thể hoàn thành sứ mệnh của mình, không thể thực hiện được mục tiêu, lý tưởng của mình, không thể giữ vững được quyền lãnh đạo đối với Nhà nước và xã hội, nếu không có sự tin tưởng, ủng hộ của nhân dân. Do đó, theo Người “Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân, thì dân mới yêu ta, kính ta”6.

Trong thời kỳ đổi mới, việc thực hiện mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo với nhân dân làm chủ, bên cạnh những ưu điểm, cũng nổi lên những hạn chế, khuyết điểm. Theo nhận định của Đại hội XII của Đảng thì quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi, nhiều lĩnh vực còn bị vi phạm; có lúc, có nơi, việc thực hiện dân chủ còn hạn chế hoặc mang tính hình thức. Những khuyết điểm đó, cùng với tác động của các nhân tố khác đã ảnh hưởng tiêu cực tới mối quan hệ giữa nhân dân đối với Đảng, mà biểu hiện rõ nhất là lòng tin của nhân dân đối với Đảng bị suy giảm. Đây là một nguy cơ lớn đối với Đảng cầm quyền và đối với chế độ.

Đại hội XII cũng đã chỉ ra nguyên nhân cơ bản dẫn đến những khuyết điểm đó là “quyền và lợi ích hợp pháp của các giai cấp, tầng lớp nhân dân chưa được kịp thời thể chế hoá, hoặc đã thể chế hoá nhưng chưa được thực hiện nghiêm túc (...) Một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức chưa thật sự tôn trọng, lắng nghe ý kiến để giải quyết kịp thời, có hiệu quả những yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của nhân dân”7; chưa thật sự phát huy dân chủ trong Đảng, phát huy vai trò giám sát, tham gia của nhân dân vào công tác xây dựng Đảng.

Để thực hiện tốt mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo với nhân dân, cần phải:

Thứ nhất, vấn đề hàng đầu, có ý nghĩa quyết định là phải xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, trước hết là tổ chức đảng và các đảng viên; xác định nhiệm vụ xây dựng Đảng là một trong 6 nhiệm vụ trọng tâm của nhiệm kỳ (2016-2020), với nội dung cơ bản là: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”8.

Thứ hai, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, trước hết là nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chủ trương phát triển kinh tế - xã hội của Đảng.

Phải đổi mới bộ máy của Đảng đáp ứng yêu cầu xây dựng hệ thống chính trị; hoàn thiện và thực hiện nghiêm cơ chế kiểm soát quyền lực, ngăn ngừa sự lạm quyền, vi phạm kỷ luật, kỷ cương. Báo cáo Chính trị của Đại hội XII chủ trương: Đổi mới bầu cử trong Đảng, phương thức tuyển chọn, bổ nhiệm cán bộ, để lựa chọn những người có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, năng động, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi cán bộ là cái gốc của mọi công việc “Muốn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”; quan điểm của Người về công tác bầu, chọn cán bộ là phải “vì công tác, vì tài năng” mà lựa chọn, cắt cử cán bộ, chứ không phải “vì lòng yêu ghét, vì thân thích, vì nể nang”. Thực tế cũng cho thấy, khi công tác bổ nhiệm cán bộ, bố trí cán bộ khép kín trong tổ chức đảng, nội bộ Đảng sẽ dễ bị nạn “bè phái”, “lợi ích nhóm”, “thân thích” chi phối, rất khó tìm được người xứng đáng. Nếu Đảng biết dựa vào nhân dân, Đảng sẽ “hiểu, đánh giá đúng cán bộ”. Vì vậy cần phải tạo cơ chế để nhân dân được trực tiếp tham gia quy trình bầu, chọn cán bộ của Đảng, nghĩa là Đảng chỉ quyết định bổ nhiệm cán bộ, bố trí cán bộ trên cơ sở sự tín nhiệm của nhân dân đối với các cá nhân được giới thiệu, bổ nhiệm.

Thứ ba, đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận, tăng cường quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân. Củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân đối với Đảng; đội ngũ cán bộ, đảng viên phải thật sự tin dân, trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân, có trách nhiệm với dân; “Quy định rõ hơn Đảng phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình”9.

Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nếu Đảng thiếu sự gắn bó mật thiết với nhân dân, Đảng sẽ mất sáng suốt, trở thành quan liêu, độc đoán, chuyên quyền. Đây cũng chính là mảnh đất màu mỡ cho tham nhũng phát sinh, phát triển. Quan liêu và tham nhũng vi phạm nghiêm trọng lợi ích của nhân dân và làm mất uy tín của Đảng, của chế độ. Để chống quan liêu, tham nhũng một cách hiệu quả, Đảng phải dựa vào nhân dân, vì “dân chúng rất đông”, “tai mắt họ nhiều, việc gì họ cũng nghe, cũng thấy” - nhân dân là người nhìn thấu được những thói hư, tật xấu của những người lãnh đạo, quản lý. Do đó, Đảng và Nhà nước cần tạo các cơ chế tiện ích và môi trường thuận lợi cho nhân dân tham gia chống quan liêu, tham nhũng. Đó là thực hiện cơ chế công khai, minh bạch các hoạt động của Đảng, Nhà nước trên tất cả các lĩnh vực; là cơ chế để những phản ánh của người dân được tiếp nhận thuận lợi và giải quyết kịp thời; là cơ chế để báo chí, truyền thông tham gia chống quan liêu, tham nhũng; là cơ chế bảo vệ người dân chống quan liêu, tham nhũng...

Thứ tư, dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Thể chế hóa và thực hiện tốt phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát”. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân, từ nêu sáng kiến, tham gia thảo luận, tranh luận đến giám sát quá trình thực hiện. Tập trung xây dựng những văn bản pháp luật liên quan trực tiếp đến quyền làm chủ của nhân dân.

Thứ năm, đổi mới phương thức lãnh đạo, phương thức cầm quyền của Đảng. Trong đó Đại hội XII nhấn mạnh: “Tiếp tục tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về đảng cầm quyền, xác định rõ mục đích cầm quyền, phương thức cầm quyền, nội dung cầm quyền, điều kiện cầm quyền; vấn đề phát huy dân chủ trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền; các nguy cơ cần lưu ý phòng ngừa đối với đảng cầm quyền”10; đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, trước hết là đổi mới phương thức lãnh đạo trong hệ thống tổ chức của Đảng; đổi mới phương pháp, phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo Đảng từ Trung ương tới cơ sở. Các cấp ủy đảng và chính quyền phải thường xuyên đối thoại, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết các khó khăn, vướng mắc và yêu cầu chính đáng của nhân dân; tin dân, tôn trọng, lắng nghe những ý kiến khác.

Thứ sáu, giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, bảo đảm mỗi người dân đều được thụ hưởng những thành quả của công cuộc đổi mới.

Tóm lại, mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân ở nước ta, là mối quan hệ hữu cơ, biện chứng giữa Đảng lãnh đạo chính trị với chủ thể quyền lực tối cao của đất nước là nhân dân. Trong lịch sử, nhân dân tin và đi theo Đảng làm nên những thắng lợi vẻ vang, vì Đảng là đội tiên phong “chắc chắn nhất” phấn đấu cho lợi ích của nhân dân, phấn đấu cho nguyện vọng giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc của nhân dân. Ngày nay, cho dù hoàn cảnh trong nước và quốc tế có nhiều biến đổi, nhưng mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân vẫn là mối quan hệ sống còn đối với Đảng và chế độ, và để mối quan hệ này được giữ vững, phát huy, vấn đề cơ bản nhất vẫn là: Đảng phải “một lòng, một dạ” phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

PGS. TS. ĐINH XUÂN LÝ

Đại học Quốc gia Hà Nội

1, 7, 8, 9, 10. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 69, 157-158, 217, 215, 217.

2, 3, 5, 6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 3, tr. 68; t. 7, tr. 270; t.5, tr. 334; t. 4, tr. 65.

4. GS. TS. Nguyễn Phú Trọng - PGS. TS. Tô Huy Rứa - PGS. TS. Trần Khắc Việt (Đồng chủ biên): Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong thời kỳ mới, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2004, tr.63-64.

Bình luận