Thành tựu lập pháp trong bảo đảm quyền con người của Quốc hội Việt Nam

Ngày đăng: 20/12/2016 - 14:12

Trải qua 70 năm, Quốc hội Việt Nam là hiện thân của cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, đại diện ý chí và nguyện vọng của mọi tầng lớp nhân dân. Thông qua hoạt động lập pháp của mình, đường lối, chính sách nhất quán về bảo vệ quyền con người được thể chế hóa ngày càng hoàn thiện, đầy đủ. Quốc hội thể hiện vai trò của mình trong việc xác lập cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền con người. Nội dung quyền con người không ngừng được quy định đầy đủ. Cơ chế bảo vệ quyền con người không ngừng được hoàn thiện, tương thích với các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.

21.12.2016 Lan ảnh Thành tựu lập pháp

Ngày nay, quyền con người đã trở thành vấn đề tâm điểm trên phạm vi toàn thế giới, là nội dung quan trọng trong các chương trình nghị sự quốc tế, hoạt động của các tổ chức trong và ngoài nước cũng như các hiệp định song phương và đa phương. Bảo vệ quyền con người đồng thời là yêu cầu của cuộc sống và sự tiến bộ xã hội đối với các quốc gia và trên toàn thế giới.

Trải qua 70 năm hình thành, phát triển từ cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên (6-1-1946-6-1-2016), Quốc hội Việt Nam là hiện thân của cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của mọi tầng lớp nhân dân. Thông qua hoạt động lập pháp của mình, đường lối và chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta về bảo vệ quyền con người đã được Quốc hội thể chế hóa ngày càng hoàn thiện, đầy đủ.

Đồng thời, thông qua việc thực hiện các quy định của luật do Quốc hội ban hành, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN đã được triển khai một cách đồng bộ, quyết liệt.Đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể, đạt được nhiều Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ. Quyền của các nhóm chịu thiệt thòi như phụ nữ, trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật... được bảo đảm tốt hơn, các quyền tự do và dân chủ của người dân ngày càng được bảo đảm trên thực tế.

1. Xác lập cơ sở hiến định bảo vệ quyền con người

Ngay từ ngày đầu thành lập (năm 1946), Quốc hội Việt Nam đã thể hiện vai trò quan trọng của mình trong việc xác lập cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền con người. Các bản Hiến pháp do Quốc hội ban hành, từ Hiến pháp đầu tiên năm 1946 đến Hiến pháp năm 1959, 1980,1992 đều thể hiện tư tưởng xuyên suốt là bảo vệ quyền con người.

Đặc biệt, kế thừa các bản Hiến pháp trước đây, Hiến pháp mới 2013 tái khẳng định, đề cao và quy định quyền con người, quyền công dân một cách đầy đủ, toàn diện và rõ ràng hơn. Hiến pháp 2013 có thể được coi là một bản hiến chương về quyền con người ở Việt Nam vì đã hàm chứa đầy đủ và toàn diện một hệ thống các quyền con người hiện đại, là một bước tiến đáng kể về tư duy nhà nước pháp quyền và thể chế hóa quyền con người ở Việt Nam, phù hợp với chuẩn mực quốc tế và các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên.

Thứ nhất, đã bổ sung nhiều quyền mới mà Hiến pháp 1992 và các hiến pháp trước đó đều chưa quy định;mở rộng phạm vi bảo vệ các quyền con người, quyền công dân trên cả mọi lĩnh vực từ dân sự, chính trị, kinh tế đến xã hội, văn hóa. Đó là quyền của công dân không bị trục xuất, giao nộp cho nước khác; quyền sống; quyền có nơi ở hợp pháp; quyền hưởng an sinh xã hội; quyền xác định dân tộc, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp; quyền sống trong môi trường trong lành...

Thứ hai, đã làm rõ hơn nội hàm của các điều về quyền con người trong Hiến pháp 1992 bằng cách quy định đầy đủ, chính xác hơn hoặc tách thành điều riêng. Đó là các quyền: bình đẳng trước pháp luật; cấm tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình; bảo vệ đời tư và nơi ở; tiếp cận thông tin; tham gia quản lý nhà nước và xã hội; bình đẳng giới; bỏ phiếu trong trưng cầu ý dân; tố tụng công bằng; sở hữu tư nhân; lao động, việc làm. Hiến pháp cũng có riêng một điều quy định bảo đảm thực hiện quyền trẻ em, đặc biệt quyền tham gia của trẻ vào các vấn đề liên quan đến các em.

Thứ ba, ở một số chương khác của Hiến pháp 2013 còn có những quy định mới có ý nghĩa quan trọng về việc bảo vệ, thúc đẩy quyền con người, quyền công dân, tiêu biểu là:Các quy định củng cố quyền làm chủ của nhân dân, thể hiện qua Lời nói đầu; Tại Điều 2 khẳng định nhân dân là chủ nhân của đất nước, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; Điều 4 xác định Đảng Cộng sản Việt Nam chịu sự giám sát của nhân dân và phải chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình; Điều 6 xác định cách thức nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện; Điều 70 bỏ quy định Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến; Điều 120 quy định về nghĩa vụ của Ủy ban dự thảo Hiến pháp phải tổ chức lấy ý kiến nhân dân về dự thảo Hiến pháp và khả năng Quốc hội quyết định “trưng cầu ý dân về Hiến pháp”.

Thứ tư, sự tương thích giữa các quy định của Hiến pháp 2013 với các công ước quốc tế về nhân quyền của Liên Hợp quốc. Đó là lần đầu tiên, Hiến pháp 2013 đề cập đến khái niệm “cấm tra tấn”; đồng thời, quy định cụ thể cấm bất kỳ hình thức bạo lực, đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của tất cả mọi người. Điều này tạo cơ sở hiến định để nội luật hóa và thực thi hiệu quả Công ước của Liên Hợp quốc về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người mà Quốc hội Việt Nam vừa phê chuẩn tại kỳ họp thứ 8 cuối năm 2014 vừa qua.

Hiến pháp 2013 lần đầu tiên quy định nguyên tắc rất quan trọng về giới hạn quyền, theo đó, “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị giới hạn theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”.

Xét ở những khía cạnh chủ chốt, quy định ở Hiến pháp 2013 đã tương thích với quy định của pháp luật quốc tế về nguyên tắc hạn chế quyền.

Về trách nhiệm của Nhà nước, trong Hiến pháp 1992 chỉ đề cập đến nghĩa vụ tôn trọng. Hiến pháp 2013 ghi nhận cả ba nghĩa vụ, đó là “tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người” không chỉ bảo đảm sự hài hòa với luật nhân quyền quốc tế, mà còn tạo cơ sở hiến định ràng buộc các cơ quan nhà nước phải thực hiện đầy đủ và nghiêm túc những nghĩa vụ về quyền con người, quyền công dân trong thực tế, đặc biệt là hai nghĩa vụ bảo vệ và bảo đảm.

Việc điều chỉnh đổi thuật ngữ đượcquy định trong Hiến pháp 1992 sang quyền tiếp cậncủa Hiến pháp 2013 có ý nghĩa rất lớn, bởi quyền tiếp cận thông tin theo luật quốc tế không chỉ bao gồm quyền được [tiếp nhận] thông tin như trong Hiến pháp 1992 mà còn bao gồm hai quyền khác đó là quyền được tìm kiếm/yêu cầu cung cấp thông tin vàquyền được chia sẻ, phổ biến thông tin.

Hiến pháp 2013 quy định nghiêm cấm sự phân biệt đối xử về giớithay cho quy định nghiêm cấm mọi hành vi phân biệtđối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ đượcnêu ở Hiến pháp 1992. Điều này làm thay đổi quan niệm và cách tiếp cận cũ về bình đẳng giới (nhấn mạnh sự phân biệt đối xử với riêng một giới là phụ nữ) sang quan điểm mới, đó là bình đẳng với cả giới nam và giới nữ. Đây là cách tiếp cận phù hợp với thực tế và với nhận thức chung của cộng đồng quốc tế; tạo điều kiện để thúc đẩy bình đẳng giới ở nước ta lên một bước mới, có tính cân bằng, thực chất và hiệu quả hơn.

Những quy định trên đây cho thấy việc hiến định các quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp 2013 đã bám sát các quy định của luật nhân quyền quốc tế và tiếp thu những tiến bộ gần đây trong hiến pháp của một số quốc gia. 

Thứ năm, các quy định mới của Hiến pháp 2013 ảnh hưởng trực tiếp đến quan điểm, phương hướng xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về quyền con người, quyền công dân theo các giá trị chung mang tính phổ quát của nhân loại.

Đó là nguyên tắc suy đoán vô tội trong Hiến pháp 1992 là không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật được diễn đạt lại thành“người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Với quy định mới này, các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ phải cân bằng và khách quan trong việc tìm chứng cứ. Họ sẽ phải tìm kiếm và coi trọng cả chứng cứ buộc tội và gỡ tội, thay vào việc chỉ tập trung tìm chứng cứ để chứng minh bị can là có tội, nếu không tìm được chứng cứ như vậy thì bị can được coi là vô tội.

Về chủ thể của quyền đòi bồi thường, Hiến pháp 2013 đề cập cụ thể hơn đến người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trái pháp luật.

Về nội hàm của quyền được bồi thường, nếu như Hiến pháp 1992 chỉ đề cập đến những thiệt hại về vật chất thì Hiến pháp 2013 quy định cả thiệt hại về tinh thần.Tương ứng, các hành vi bị coi là trái pháp luật trong tố tụng hình sự từ Hiến pháp 1992 gồm bắt, giam giữ, truy tố, xét xử được mở rộng trong Hiến pháp 2013 đến bắt, giam, giữ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án gây thiệt hại cho người khác.

Chủ thể của quyền sở hữu tư nhân được mở rộng từ “công dân” trong Hiến pháp 1992 sang “mọi người” trong Hiến pháp 2013. Sự mở rộng này phù hợp với thực tế và đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, khi mà các thể nhân, pháp nhân nước ngoài có mặt làm ăn, sinh sống ngày càng nhiều ở nước ta.

Bên cạnh sự mở rộng quan trọng về chủ thể, Hiến pháp 2013 nêu rõ: Trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng chống thiên tai, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của tổ chức, cá nhân theo giá thị trường.Quy định bổ sung này một lần nữa nhấn mạnh việc Nhà nước cam kết tôn trọng quyền sở hữu tư nhân, đồng thời xác lập khuôn khổ hiến định cho sự can thiệp của Nhà nước vào quyền này, qua đó ngăn ngừa những hành động tùy tiện của các cơ quan, quan chức nhà nước xâm phạm quyền sở hữu tư nhân.

2. Nội dung về quyền con người không ngừng được quy định đầy đủ

Các nội dung về quyền con người, quy định các cơ chế bảo đảm thực hiện quyền con người, ban hành nhiều văn bản luật, pháp lệnh, nghị quyết, tạo cơ sở pháp lý để thực thi các quyền con người. Chỉ tính từ giữa năm 1992 (là thời điểm Hiến pháp năm 1992 có hiệu lực thi hành) đến hết năm 2008, Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành 547 văn bản luật, pháp lệnh và nghị quyết có chứa quy phạm pháp luật. Các văn bản này đã quy định một cách khá đầy đủ và toàn diện về quyền con người trên tất cả các lĩnh vực chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội,... cũng như về cơ chế bảo đảm thực hiện các quyền đó. Cụ thể như sau:

Trong lĩnh vực chính trị,các quyền và nghĩa vụ thể hiện tập trung ở việc công dân được tham gia thực hiện quyền lực nhà nước.Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp về quyền bầu cử, ứng cử của công dân, các luật: Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội; Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân. Thực tế các cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội, bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân đã diễn ra một cách dân chủ theo đúng quy định của pháp luật.

Trong nhiều văn bản luậtđã quy định cụ thể các quyền của công dân tham gia trực tiếp và gián tiếp vào công việc quản lý nhà nước, như quyền được biết, được bàn, được làm và được kiểm tra, giám sát. Riêng quyền thực hiện dân chủ trực tiếp ở cơ sở, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành các Nghị quyết về quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn; Pháp lệnh về việc thực hiện dân chủ ở xã, phường. Ðây là một nét khá đặc sắc của Việt Nam trong việc phát huy và thực hiện quyền dân chủ trực tiếp ở cơ sở, được bạn bè quốc tế ghi nhận.

Trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội,các quyền và nghĩa vụ học tập; quyền và nghĩa vụ lao động; quyền được hưởng chế độ bảo vệ sức khỏe; quyền về nhà ở; quyền sở hữu, tự do kinh doanh,... đều được cụ thể hóa trong các luật như: Luật Giáo dục; Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em; Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân; Bộ luật Lao động; Luật Bình đẳng giới; Luật Nhà ở...

Trong các quyền nêu trên, tự do kinh doanh là một quyền rất cơ bản được quy định trong Hiến pháp.Ðể cụ thể hóa vấn đề này, Quốc hội cũng đã ban hành nhiều văn bản luật, như: Bộ luật Dân sự, Bộ luật Lao động, Luật Ðầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Thương mại, Luật Hàng hải...

Về các quyền liên quan đến phụ nữ và trẻ em,đã được quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật, góp phần quan trọng vào những thành tựu về bảo đảm và thúc đẩy các quyền của phụ nữ và trẻ em. Luật Bình đẳng giới cùng với các quy định về quyền được chăm sóc và bảo vệ sức khỏe bà mẹ, trẻ em; chế độ thai sản, chế độ đối với lao động nữ,... đã tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai trò người công dân, người lao động, người mẹ, người thầy đầu tiên của con người; đồng thời, góp phần phòng, chống các tệ nạn xã hội, các hành vi bạo lực, xâm hại và xúc phạm nhân phẩm phụ nữ, trẻ em.

Các quyền cơ bản của trẻ em như: quyền được chăm sóc sức khỏe; quyền được học tập, được phát triển; quyền được vui chơi, giải trí;... đều được cụ thể hóa trong các quy định của pháp luật.

Về các quyền nhân thân,Quốc hội đã quy định khá cụ thể trong nhiều văn bản pháp luật.Trong nhóm các quyền này, quyền bất khả xâm phạm về thân thể là quyền tự do cá nhân đặc biệt quan trọng, được các bản Hiến pháp nước ta quy định. Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm. Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện Kiểm sát nhân dân, trừ những trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt hoặc giam giữ người phải đúng pháp luật. Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân. Hiến pháp còn quy định: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp luật”.

Ðể bảo đảm thực thi những quy định đó,Quốc hội đã ban hành nhiều văn bản pháp luật liên quan nhiều đến các quyền tự do dân chủ, tự do cá nhân của công dân. Trong các văn bản pháp luật này, ngoài việc quy định cụ thể về quyền bất khả xâm phạm của công dân, còn thể hiện tính chất nhân đạo của Ðảng và Nhà nước ta đối với người phạm tội, như về việc đặc xá; bảo đảm quyền bào chữa, quyền khiếu nại, tố cáo của bị can, bị cáo; về chế độ thăm nuôi, nhận quà và đặc biệt là về chế độ ăn, mặc, ở, học tập, khám chữa bệnh cho phạm nhân.

Nghị quyết số 388/NQ-UBTVQH11 ngày 17-3-2003 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra đã quy định, công dân bị thiệt hại do bị oan có quyền được bồi thường về vật chất và phục hồi danh dự. Mới đây, tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII đã xem xét, thông qua Bộ luật hình sự (sửa đổi) theo hướng bỏ bớt hình phạt tử hình đối với một số tội danh.

Quyền khiếu nại, tố cáo cũng là một trong những quyền quan trọng của công dân, được pháp luật bảo vệ.

Ðiểm đáng chú ý là, Luật Khiếu nại, tố cáo quy định: công dân, tổ chức khi thực hiện quyền khiếu nại, có quyền lựa chọn việc khiếu nại đến các cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền hoặc khởi kiện ra Tòa án bằng con đường tố tụng tư pháp; trong quá trình khiếu nại, tố cáo, công dân có quyền nhờ luật sư để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Về quyền tự do tín ngưỡng, các bản Hiến pháp đều quy định: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước”. Ðể thực hiện các quy định này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hànhPháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo.

3. Cơ chế bảo vệ quyền con người không ngừng được hoàn thiện

Căn cứ vào quy định của Hiến pháp, trong từng thời kỳ, Quốc hội đã ban hành các đạo luật về tổ chức, hoạt động của các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến địa phương. Đồng thời, hoạt động lập pháp của Quốc hội đã tạo lập nên hệ thống các cơ quan tư pháp: tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân các cấp để tổ chức thực hiện quyền tư pháp, trong đó, hoạt động điều tra, truy tố, xét xử được luật định ngày càng cụ thể, chi tiết và đặc biệt là hoạt động theo nguyên tắc pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tôn trọng và bảo vệ quyền con người.

Hiến pháp 2013 lần đầu tiên đề cập đến cụm từ “cơ chế bảo vệ Hiến pháp” và xác định Nhân dân là một trong các chủ thể bảo vệ Hiến pháp. Đây là tiền đề để bảo vệ nhân quyền ở cấp cao nhất, bởi xét đến cùng, bảo hiến chính là bảo vệ các quyền hiến định.

Ngoài ra, một loạt các điều khoản sửa đổi khác trong Hiến pháp 2013 cũng có ý nghĩa tăng cường cơ chế bảo vệ nhân quyền, trong đó quy định nhiệm vụ mới của Chính phủ là bảo vệ quyền con người, quyền công dân; của Tòa án nhân dân bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người; xác định nhiệm vụ mới của Viện kiểm sát nhân dân là bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Những quy định này gắn liền trách nhiệm của các cơ quan hành pháp và tư pháp trong việc bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng vì trước đó ở Việt Nam, trách nhiệm và bảo vệ, thúc đẩy nhân quyền thường chỉ được gắn với cơ quan lập pháp - Quốc hội.

Hoạt động lập pháp của Quốc hội đã xác lập cở sở pháp lý cho việc triển khai công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật. Đồng thời, Quốc hội đã thường xuyên tiến hành hoạt động giám sát việc thực thi pháp luật, coi đây là một nhiệm vụ rất quan trọng bảo đảm cho luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội được thực hiện trong thực tế.

Các cuộc giám sát chuyên đề, giám sát cụ thể liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của người dân ngày càng được tăng cường, như: giám sát việc thi hành Nghị quyết 388 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra; giám sát công tác đền bù giải phóng mặt bằng, tạo việc làm cho người dân có đất bị thu hồi; giám sát việc chấp hành pháp luật khiếu nại, tố cáo của công dân...

4. Tương thích với các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia

Quan điểm của Việt Nam khi tham gia vào các điều ước quốc tế về quyền con người là coi việc tôn trọng, bảo vệ và thực thi nhân quyền là quyền và nghĩa vụ quan trọng nhất của tất cả các quốc gia. Mọi quốc gia đều phải chịu trách nhiệm trong việc xây dựng hệ thống pháp luật trong nước phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, đặc biệt là Hiến chương của Liên Hợp quốc, có tính đến tình hình của từng nước cụ thể, để bảo đảm rằng người dân được thụ hưởng quyền con người một cách tốt nhất.

Đến nay, Việt Nam đã tham gia Tuyên ngôn thế giới về quyền con người 1948 và đã ký, phê chuẩn 7 trong số 9 công ước cơ bản về quyền con người. Việt Nam cũng đã ký và phê chuẩn 2 Nghị định thư tùy chọn của Công ước về quyền của trẻ em là Nghị định thư về sự tham gia của trẻ em vào xung đột vũ trang[1] và Nghị định thư tùy chọn của Công ước về quyền của trẻ em, về việc buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và khiêu dâm trẻ em(1).

Ngoài các công ước do Liên Hợp quốc thông qua, còn có các công ước do các tổ chức thuộc hệ thống Liên Hợp quốc ban hành. Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) kể từ khi thành lập đến nay đã thông qua hơn 190 công ước, trong đó có 8 công ước được coi là cơ bản,hay còn gọi là 8 tiêu chuẩn lao động cốt lõi về nhân quyền,Việt Nam đã phê chuẩn 5/8công ướcnày(2).

Trong gần 70 năm qua, nhờ kiên trì thực hiện mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN, Quốc hội đã ban hành nhiều đạo luật trực tiếp điều chỉnh quyền con người, quyền công dân.

Nội dung của các đạo luật được ban hành đã cố gắng đến mức tối đa nội luật hóa các cam kết của Việt Nam trong các điều ước quốc tế về quyền con người. Cụ thể là trong từng đạo luật đều có quy định có tính nguyên tắc, “trường hợp các quy định của luật trái với các quy định của điều ước quốc tế thì ưu tiên thực hiện điều ước quốc tế.” Đồng thời, Quốc hội cũng tuân thủ quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật là các quy định của nội luật “không làm cản trở việc thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên”.

Các đạo luật của Quốc hội ban hành đã phát huy hiệu lực, hiệu quả, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo, thực hiện bình đẳng giới, thực hiện các sinh hoạt văn hóa, lễ hội, tín ngưỡng, tôn giáo,... Ðó là những thực tế mà người dân ai cũng biết, được bạn bè quốc tế khẳng định và không ai có thể xuyên tạc được.

_______________

(1) Nghị định thư không bắt buộc bổ sung của Công ước quốc tế về Quyền của trẻ em về việc buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và khiêu dâm trẻ em (CRC-OP-SC) ký ngày 8-9-2000 và phê chuẩn ngày 20-12-2001.

(2) Công ước số 29 về Lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc; gia nhập ngày 5-3-2007; Công ước số 100 về Trả công bình đẳng giữa lao động nam và lao động nữ cho một công việc có giá trị ngang nhau; gia nhập ngày 7-10-1997; Công ước số 111 về Không phân biệt đối xử trong việc làm và nghề nghiệp; gia nhập ngày 7-10-1997; Công ước số 138 về Tuổi lao động tối thiểu; gia nhập ngày 24-6-2003; Công ước số 182 về việc Cấm và những hành động tức thời để loại bỏ những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất; gia nhập ngày 19-12-2000.

TS Ngô Đức Mạnh

Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội

Theo Tạp chí Lý luận chính trị

Bình luận