"Không có gì quý hơn độc lập, tự do"! - Chân lý của thời đại
Lịch sử dân tộc Việt Nam mãi ghi nhớ, ngày 17-7-1966, giữa những ngày gian khổ ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Bác Hồ đã đưa đến cho dân tộc, đất nước một lẽ sống, một quyết tâm, một niềm tin tất thắng: "Không có gì quý hơn độc lập, tự do!".
Thấu hiểu nỗi đau của người dân mất nước trước ngàn vạn điều cay đắng của cuộc đời, Bác Hồ đã sớm cảm nhận một cách sâu sắc: "Cay đắng chi bằng mất tự do". Không có tự do thì không còn hạnh phúc. Quan niệm hạnh phúc được Người khái quát trong tiêu ngữ "Độc lập - Tự do - Hạnh phúc", được gắn liền với Quốc hiệu "Việt Nam Dân chủ Cộng hòa" trở thành mục tiêu phấn đấu cho toàn dân, trở thành cơ sở cho mọi suy nghĩ và hành động.
Và quan niệm hạnh phúc ấy đã chi phối suốt cuộc đời của Người, như Người đã nói: "Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn; đấy là tất cả những điều tôi hiểu"1. Ở Bác Hồ, hạnh phúc lớn nhất là suốt đời chiến đấu cho hạnh phúc của nhân dân, giành lại độc lập và tự do, cái quý nhất của đất nước và của mỗi con người. "Làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành"2, ham muốn tột bậc ấy ở Người đã trở thành ý chí của toàn dân.
Trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, Bác Hồ đã khẳng định quyết tâm chiến lược của dân tộc: "Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!"3.
"Không có gì quý hơn độc lập, tự do!" là ý chí, là nguyện vọng của toàn dân Việt Nam, là chân lý của thời đại. Hưởng ứng lời kêu gọi vang dậy núi sông đó của Bác Hồ, quân và dân ta từ Nam ra Bắc, phát huy lòng yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng, lại được sự giúp đỡ có hiệu quả của các nước xã hội chủ nghĩa và bè bạn thế giới, đã làm phá sản hai cuộc phản công chiến lược mùa khô năm 1965 - 1966 và năm 1966 - 1967 của Mỹ - ngụy. Và chúng ta đã tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968 - là đòn sét đánh làm cho hơn 1,2 triệu quân Mỹ - ngụy và chư hầu trở tay không kịp, chúng kinh hoàng, lúng túng, dồn đế quốc Mỹ ngày càng lún sâu vào thế phòng ngự chiến lược. Quân dân miền Bắc đã đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ, bắn rơi trên 3.000 máy bay, tiêu diệt và bắt sống nhiều giặc lái, bắn chìm và bắn bị thương hơn 150 tàu chiến của địch. Đó là đòn giáng vào chiến lược chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ, mở ra một cục diện mới, buộc đế quốc Mỹ phải thương lượng với ta ở Hội nghị Pari.
Cùng với chiến thắng trên tiền tuyến, ở khắp hậu phương miền Bắc dấy lên các phong trào thi đua sôi nổi. Công nhân có cuộc vận động "ba xây, ba chống"; nông dân có cuộc vận động "cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật"; phụ nữ có cuộc vận động "ba đảm đang"; thanh niên có phong trào "ba sẵn sàng"; phụ lão ở một số nơi có phong trào "bạch đầu quân". Nhân dân ta nêu cao khẩu hiệu vừa sản xuất, vừa chiến đấu, vừa chống Mỹ, cứu nước, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội: "tay búa, tay súng", "tay cày, tay súng". Địch đánh phá mạnh hòng đưa miền Bắc trở về thời kỳ đồ đá, do đó, bằng mọi cách phải duy trì được sản xuất. Muốn đánh thắng, trước hết phải bảo đảm cho quân dân ta được ăn no. Bác Hồ quan tâm hàng đầu đến sản xuất nông nghiệp, Người nói: "Dù khó khăn đến mấy, vấn đề lương thực cũng phải giải quyết cho được. Nếu không làm được lúa, phải chuyển nhanh, thiếu cơm có khoai, thiếu khoai có sắn"4.
Soi sáng bởi chân lý "Không có gì quý hơn độc lập, tự do!", quân và dân ta tiến hành cuộc Tổng tiến công chiến lược năm 1972 thu được thắng lợi lớn làm thay đổi hẳn so sánh lực lượng giữa ta và địch, tình thế có lợi cho ta, làm chuyển biến cục diện chiến tranh để quân và dân ta tiến lên giành thắng lợi to lớn mới. Bị thua đau ở miền Nam, chính quyền R. Níchxơn mở cuộc tập kích chiến lược bằng pháo đài bay B.52 vào Hà Nội, Hải Phòng và nhiều vùng khác trên miền Bắc. "Đó là hành động tuyệt vọng của chúng, khác nào con thú dữ bị thương nặng, giãy giụa một cách hung tợn trước hơi thở cuối cùng". Với khí phách quật cường "Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ", quân và dân ta đã lập chiến công "Điện Biên Phủ trên không", trong 12 ngày đêm cuối tháng 12-1972, quân dân ta đã hạ 81 máy bay các loại, trong đó có 34 máy bay B.52 của đế quốc Mỹ.
Tính chung từ ngày 5-8-1964 (ngày máy bay Mỹ bắt đầu bắn phá miền Bắc) đến ngày 17-1-1973, quân và dân miền Bắc bắn rơi 4.181 máy bay Mỹ, trong đó có 68 máy bay B.52, 13 máy bay F-111, tiêu diệt hàng ngàn giặc lái, bắt sống 472 tên, 271 lần bắn chìm, bắn cháy tàu chiến và tàu biệt kích Mỹ. Thua đau ở Việt Nam, ngày 27-1-1973, tập đoàn R. Níchxơn phải ký Hiệp định Pari. Ngày 29-3-1973, đội quân viễn chinh Mỹ phải âm thầm và cay đắng cuốn cờ về nước.
Với ý chí "Không có gì quý hơn độc lập, tự do!", dân tộc ta đã "đánh cho Mỹ cút", trang sử đánh giặc ngoại xâm của Việt Nam có thêm: người con gái biệt động Võ Thị Thắng trước đòn khảo tra dã man của quân thù vẫn nở nụ cười chiến thắng; Nguyễn Văn Trỗi trước giờ phút bị quân thù xử bắn, hai tay bị trói chặt mà đôi mắt vẫn sáng ngời niềm tin chiến thắng đã nhìn thẳng vào mặt quân thù hô vang ba lần: "Hồ Chí Minh muôn năm!"; Nguyễn Viết Xuân nhằm thẳng quân thù mà bắn; 10 cô gái Đồng Lộc ở tuổi thanh xuân đã hy sinh cho sự nghiệp độc lập, tự do của dân tộc...
Thừa thắng, quân và dân ta tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh. Trong 55 ngày đêm tiến công, ta đã "đánh cho ngụy nhào", tiêu diệt và làm tan rã hơn 1 triệu quân địch và 1,5 triệu tên phòng vệ dân sự. 10 giờ 45 phút ngày 30-4-1975, ta chiếm Dinh Độc Lập, bắt sống toàn bộ chính quyền trung ương Sài Gòn. Đúng 11 giờ 30 phút, lá cờ cách mạng tung bay trên Dinh Độc Lập. Từ đây đất nước thống nhất, giang sơn thu về một mối, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện trọn vẹn mong muốn của Bác Hồ và làm sáng ngời hiện thực của chân lý "Không có gì quý hơn độc lập, tự do!" trong sự nghiệp bảo vệ đất nước.
"Không có gì quý hơn độc lập, tự do!", chúng ta đã vào cuộc trường chinh xây dựng "đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn" với công cuộc đổi mới theo sự chỉ dẫn của Bác Hồ: "chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi"; để đi tới công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo con đường Người đã vạch ra: "Đời sống nhân dân chỉ có thể thật dồi dào, khi chúng ta dùng máy móc để sản xuất một cách thật rộng rãi... Máy sẽ chắp thêm tay cho người, làm cho sức người tăng lên gấp trăm, nghìn lần và giúp người làm những việc phi thường.
Muốn có nhiều máy, thì phải mở mang các ngành công nghiệp làm ra máy, ra gang, thép, than, dầu... Đó là con đường phải đi của chúng ta, con đường công nghiệp hóa nước nhà... là con đường no ấm thật sự của nhân dân ta"5.
Thực tế lịch sử đã cho thấy: "Không có gì quý hơn độc lập, tự do!" mãi mãi là niềm tin và tự hào của loài người, vì đó là chân lý vĩnh hằng cho mọi quốc gia, mọi dân tộc ở mọi giai đoạn và mọi thời kỳ lịch sử. Điều đó như bạn bè thế giới đã khẳng định:
"Lời tuyên ngôn không thể nào quên của Chủ tịch Hồ Chí Minh là "Không có gì quý hơn độc lập, tự do" đã vang vọng khắp mọi nơi và nó được phụ nữ, nam giới trên khắp các châu, những người đang chiến đấu để giành lấy những mục tiêu thiêng liêng đó hưởng ứng".
"Cả thế giới đã học từ Bác Hồ chân lý "Không có gì quý hơn độc lập, tự do!"".
"Lời hiệu triệu Không có gì quý hơn độc lập, tự do của Chủ tịch Hồ Chí Minh soi sáng cho dân tộc Việt Nam và cho tất cả những người yêu nước trên khắp năm châu đang đấu tranh cho hòa bình, tự do và độc lập dân tộc".
"Trong số những người con xuất sắc trên hành tinh chúng ta, tên tuổi Chủ tịch Hồ Chí Minh nổi lên như một ngôi sao sáng chói nhất... Câu nói bất hủ của Người "Không có gì quý hơn độc lập, tự do!" vang lên như hồi chuông cấp báo, thức tỉnh những người yêu nước, thúc giục họ đứng lên trong cuộc đấu tranh thiêng liêng vì tự do. Một dân tộc đã sinh ra vị lãnh tụ như vậy là vô địch"...
Bài viết trích trong cuốn Đạo đức Bác Hồ tấm gương soi sáng cho muôn đời
do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản
1. Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1975, tr.49.
2, 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.627, 131.
4. Hồ Chí Minh:Toàn tập, Sđd,t.15, tr.19.
5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.445.
Bài viết liên quan | Xem tất cả
- Đồng chí Hoàng Văn Thụ với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc
- Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từ trần
- Đồng chí Nguyễn Văn Tố - Nhà lãnh đạo tài năng, học giả uyên bác của Việt Nam
- Đồng chí Hoàng Đình Giong, lãnh đạo tiền bối tiêu biểu của Đảng và cách mạng Việt Nam
- Đồng chí Đào Duy Tùng với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc
- Đồng chí Nguyễn Lương Bằng - Người chiến sĩ cộng sản mẫu mực, người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
- Xây dựng và phát triển nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, mang đậm bản sắc “Cây tre Việt Nam”
- Sách đồng hành cùng doanh nghiệp trong thời đại công nghệ số
- Đồng chí Lương Khánh Thiện - người chiến sĩ cộng sản kiên trung, trọn đời cống hiến cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc
- Kỷ niệm 116 năm Ngày sinh Tổng Bí thư Lê Duẩn (07/4/1907 - 07/4/2023): Nhà lãnh đạo kiệt xuất trọn đời vì nước, vì dân
- Đồng chí Chu Huy Mân - Người cộng sản kiên cường, nhà chính trị xuất sắc của Đảng và Quân đội nhân dân Việt Nam (17/3/1913 - 17/3/2023)
- Đồng chí Huỳnh Tấn Phát - Người cộng sản kiên trung mẫu mực