Những đặc điểm chủ yếu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Ngày đăng: 22/02/2018 - 15:02

Tóm tắt: Nhà nước pháp quyền là một trong những giá trị xã hội quý báu được tích lũy và phát triển trong lịch sử tư tưởng nhân loại, là một hình thức tổ chức nhà nước có trách nhiệm tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm các quyền con người, quyền công dân, có sự kiểm soát giữa các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, thượng tôn Hiến pháp và pháp luật. Ở Việt Nam, xây dựng Nhà nước pháp quyền không chỉ nhằm hòa nhập xu thế chung của thời đại, mà là một tất yếu khách quan. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xây dựng trên sự tiếp thu có chọn lọc lý luận, kinh nghiệm xây dựng Nhà nước pháp quyền của các quốc gia trên thế giới, vận dụng vào điều kiện cụ thể của đất nước, do vậy, có những đặc trưng riêng, đã và đang đạt được nhiều thành tựu bước đầu. Bài viết tập trung phân tích những đặc điểm cơ bản của Nhà nước pháp quyền và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Từ khóa: Nhà nước pháp quyền, hệ thống pháp luật, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Nhận thức chung về Nhà nước pháp quyền

- Khái niệm Nhà nước pháp quyền

Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền đã xuất hiện từ rất sớm, trong tư tưởng chính trị - pháp lý thời cổ đại đã chứa đựng nhiều nhân tố của Nhà nước pháp quyền. Đến thời kỳ cách mạng dân chủ tư sản, những tư tưởng đó đã được kế thừa, phát triển để trở thành học thuyết về Nhà nước pháp quyền. Học thuyết đó đã được áp dụng ở mức độ, phạm vi khác nhau ở nhiều nước tư sản. Ngày nay, học thuyết đó lại tiếp tục được bổ sung, phát triển cho phù hợp với những thay đổi sâu sắc của xã hội hiện đại.

Nhà nước pháp quyền có nội hàm khái niệm rộng lớn, trong lý luận đang có nhiều cách tiếp cận, nhiều cách định nghĩa khác nhau về Nhà nước pháp quyền cũng như các đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền. Tuy vậy, vẫn đạt được những quan điểm chung về Nhà nước pháp quyền trong lý luận và nhận thức thực tiễn.

Trong lý luận đang có nhiều cách tiếp cận về khái niệm và các yếu tố cơ bản của Nhà nước pháp quyền. Cụ thể là các yếu tố: tính tối cao của pháp luật, nghĩa vụ tuân thủ pháp luật của Nhà nước; nguyên tắc phân công rành mạch giữa các chức năng - các quyền - nhánh quyền lực: lập pháp, hành pháp và tư pháp1, dân chủ,...; là quyền cá nhân về tự do và tự chủ kinh doanh trong lĩnh vực sản xuất và tiêu dùng2.

Tại Hội nghị quốc tế về Nhà nước pháp quyền được tổ chức năm 1992, các luật gia đã đưa ra nhiều khái niệm, tiêu chí khác nhau về Nhà nước pháp quyền, nhưng nhìn chung các tiêu chí về một Nhà nước pháp quyền được đông đảo dư luận quốc tế đồng tình bao gồm: sự thừa nhận tính tối cao của pháp luật; việc tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của con người, tôn trọng pháp luật quốc tế, v.v.. Phương thức tổ chức xây dựng và vận hành của Nhà nước pháp quyền sẽ thể hiện cụ thể ở mỗi nước chứ không có mô hình về Nhà nước pháp quyền đồng nhất cho tất cả các nước khác nhau.

Qua thực tiễn tồn tại và phát triển của lịch sử nhân loại, qua nghiên cứu các quan điểm tư tưởng về tổ chức quyền lực nhà nước, có thể cho rằng, khái niệm Nhà nước pháp quyền là Nhà nước được xem xét trong mối tương quan với pháp luật, phục tùng pháp luật và là một nền pháp luật nhân đạo, công bằng, tất cả vì lợi ích chính đáng của con người.

Nhà nước pháp quyền là hiện tượng chính trị - pháp lý phức tạp, thường được hiểu theo nhiều cấp độ, do vậy, khó có thể có một định nghĩa bao quát hết nội hàm khái niệm Nhà nước pháp quyền. Và, trên cơ sở các quan điểm được thừa nhận chung hiện nay, có thể nêu một cách ngắn gọn nhất về khái niệm Nhà nước pháp quyền: Nhà nước pháp quyền là một hình thức tổ chức nhà nước có trách nhiệm tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm các quyền con người, quyền công dân, được tổ chức và hoạt động trên các nguyên tắc: phân công lao động khoa học, hợp lý, có sự kiểm soát giữa các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, thượng tôn Hiến pháp, pháp luật, một nền pháp luật nhân văn, công bằng, ghi nhận và có cơ chế bảo vệ, bảo đảm các quyền, tự do của con người3.

Nhà nước pháp quyền là Nhà nước có hệ thống pháp luật hoàn thiện, phù hợp với lẽ công bằng, nhân đạo, thể hiện đầy đủ các giá trị xã hội cao quý nhất của con người; được Nhà nước bảo đảm thực hiện bằng cơ chế phân công quyền lực khoa học, cơ chế kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm, cơ chế bồi thường thiệt hại về tinh thần và vật chất.

Nhà nước pháp quyền là một tổ chức công quyền được thành lập và hoạt động trên cơ sở pháp luật, nhằm mang lại tự do, hạnh phúc cho Nhân dân, gắn liền với sự tồn tại và phát triển của xã hội dân chủ, thông qua hệ thống các thể chế và yêu cầu dân chủ như: đề cao chủ quyền nhân dân; có cơ chế tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước khoa học, hiệu quả; dân chủ hóa đời sống nhà nước và xã hội... Nói tới Nhà nước pháp quyền là nói tới một nhà nước tồn tại, phát triển và vận hành trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật, dân chủ hóa trong mọi lĩnh vực hoạt động xã hội, đảm bảo sự tham gia góp ý kiến, phản biện của Nhân dân đối với chính sách, pháp luật.

- Những đặc trưng cơ bản (các nguyên tắc) của Nhà nước pháp quyền

Trên cơ sở phổ quát nhất, có thể đề cập những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền như sau:

Thứ nhất, Nhà nước có trách nhiệm tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm và thúc đẩy các quyền con người, quyền công dân cùng sự tự do, các lợi ích hợp pháp, chính đáng của con người. Đồng thời bằng Hiến pháp, pháp luật xác định giới hạn của quyền con người, quyền công dân.

Thứ hai, Nhà nước pháp quyền tôn trọng, thừa nhận tính tối cao của Hiến pháp và pháp luật, xác lập quyền lực của pháp luật, Nhà nước phải biết tự đặt mình dưới pháp luật, bảo đảm tính tối cao của các đạo luật trong hệ thống văn bản pháp luật trong xây dựng và thực hiện pháp luật.

Một trong những yêu cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền là đảm bảo nguyên tắc thượng tôn Hiến pháp, pháp luật, tính tối cao của các đạo luật trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. Đây không phải là một yêu cầu chủ quan, duy ý chí mà xuất phát từ chính bản thân các đạo luật, là sự phản ánh ý chí, nguyện vọng của Nhân dân nên nó cần được khẳng định và ghi nhận là nguồn cơ bản và hàng đầu của các văn bản quy phạm pháp luật. Yêu cầu này đặt ra một số vấn đề như sau:

- Tất cả các cơ quan, tổ chức, cá nhân phải tổ chức và hoạt động theo quy định của các đạo luật;

- Việc ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành luật phải trên cơ sở văn bản luật; nội dung của văn bản hướng dẫn không được trái với văn bản luật;

- Xác lập và tăng cường cơ chế kiểm tra, giám sát đối với hoạt động tuân thủ pháp luật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân;

- Có biện pháp hữu hiệu bảo đảm việc thực thi các văn bản luật.

Thượng tôn Hiến pháp, pháp luật cũng là thượng tôn các quyền con người, quyền công dân.

Thứ ba, Nhà nước có trách nhiệm tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm các quyền con người, quyền công dân. Quyền, tự do và lợi ích chính đáng của con người được pháp luật ghi nhận và bảo đảm bằng quyền lực nhà nước.

Mục tiêu cao nhất của Nhà nước pháp quyền là bảo đảm quyền tự do, dân chủ của con người. Vì vậy, pháp luật trong Nhà nước pháp quyền là phương tiện ghi nhận quyền dân chủ, tự do và lợi ích chính đáng của con người, đồng thời, cũng quy định cả những biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn và trừng trị những hành vi xâm hại đến các quyền và lợi ích đó.

Để hiện thực hóa các quy định này của pháp luật, Nhà nước pháp quyền phải nêu cao vị trí độc lập và hiệu quả hoạt động của các Tòa án. Tính độc lập của các Tòa án phải được tuân thủ một cách nghiêm ngặt thì cơ quan này mới thực sự xứng đáng là nơi xét xử và giải quyết mọi tranh chấp, mâu thuẫn trong xã hội, mới bảo đảm được sự công minh của pháp luật và sự bình đẳng của mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quá trình tố tụng.

Thứ tư, Nhà nước pháp quyền là Nhà nước, trong đó mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân bình đẳng về quyền và nghĩa vụ, quan hệ đồng trách nhiệm. Tuân thủ pháp luật là nghĩa vụ đối với mọi cá nhân, tổ chức, kể cả Nhà nước; Nhà nước phải chịu trách nhiệm vật chất, tinh thần về các quyết định và hành vi của mình.

Thứ năm, quyền lực nhà nước được phân định rõ ràng và có cơ chế kiểm soát quyền lực để bảo vệ, bảo đảm thực hiện các quyền con người. Hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước được thiết kế một cách khoa học, hợp lý. Theo đó, ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp được phân định rõ ràng, rành mạch cho ba hệ thống cơ quan tương ứng trong mối quan hệ cân bằng, đối trọng, chế ước, kiểm soát lẫn nhau, tạo thành cơ chế đồng bộ bảo đảm sự thống nhất của quyền lực nhà nước, thực hiện quyền lực nhân dân.

Nguyên tắc này cũng đặt ra yêu cầu mọi thiết chế quyền lực nhà nước phải được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, không ai có thể lạm dụng quyền lực và vì lẽ đó, cần phải sắp xếp quyền lực sao cho không có sự lạm quyền.

Thứ sáu, pháp luật trong Nhà nước pháp quyền phải bảo đảm tính minh bạch, công khai, ổn định và bảo đảm các giá trị công bằng, nhân đạo, hợp lý vì lợi ích chính đáng của con người.

Con người có các quyền tự do, bình đẳng và quyền sở hữu... đó là những quyền tự nhiên, thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Nhà nước ra đời để bảo vệ con người, bảo vệ pháp luật. Trong Nhà nước pháp quyền, các quyền tự do, dân chủ, bình đẳng của công dân phải được ghi nhận về mặt lập pháp, tuân thủ về mặt hành pháp và được bảo vệ về mặt tư pháp bằng những cơ chế pháp lý bảo đảm các quyền công dân được thực hiện và có biện pháp xử lý những hành vi vi phạm các quyền đó.

- Tính minh bạch, công khai của pháp luật: một hệ thống pháp luật bảo đảm tính minh bạch, công khai phải được thể hiện trong tất cả các giai đoạn, các yếu tố của cơ chế điều chỉnh pháp luật, trong xây dựng, ban hành pháp luật, tổ chức thực hiện, áp dụng pháp luật. Tính minh bạch, công khai của pháp luật còn phải được thể hiện trong hoạt động giải thích pháp luật, trong các dịch vụ pháp luật, giáo dục pháp luật.

Bảo đảm tính minh bạch, công khai của pháp luật phải bắt đầu từ khâu xây dựng chính sách, từ chính sách rồi mới đến soạn thảo, ban hành quy định pháp luật. Yêu cầu minh bạch, công khai này của Nhà nước pháp quyền phải được thể hiện như là một đòi hỏi chính đáng của xã hội đối với bản thân chính sách, đường lối lãnh đạo của Đảng. Tính minh bạch, công khai của pháp luật là một trong những phương thức bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ, không chồng chéo, mâu thuẫn, bảo đảm trật tự hiệu lực pháp lý. Trong đó, Hiến pháp phải là đạo luật gốc, có hiệu lực pháp lý cao nhất, các đạo luật và các văn bản dưới luật khác khi ban hành phải bảo đảm không trái với những quy định của Hiến pháp.

Minh bạch, công khai đòi hỏi phải có cơ chế kiểm soát Hiến pháp, bảo vệ Hiến pháp. Đó cũng chính là một trong những yêu cầu mới, điều kiện, thách thức mới đặt ra đối với sự lãnh đạo của Đảng trong Nhà nước pháp quyền.

Một hệ thống pháp luật rõ ràng cũng phải bảo đảm từng quy phạm pháp luật trong đó phải đơn giản, dễ hiểu, dễ vận dụng để có thể nhanh chóng đi vào cuộc sống. Chính vì thế, một trong những yêu cầu về kỹ thuật lập pháp là ngôn ngữ sử dụng trong văn bản quy phạm pháp luật phải chính xác, phổ thông, cách diễn đạt phải đơn giản, rõ ràng, dễ hiểu và được hiểu thống nhất; không quy định chồng chéo, trùng lặp.

- Tính ổn định của pháp luật: pháp luật trong Nhà nước pháp quyền chỉ có ý nghĩa khi được Nhân dân và các chủ thể khác trong xã hội tuân theo. Muốn tuân theo thì phải có sự chuẩn bị nhất định từ phía người dân. Muốn có sự chuẩn bị thì pháp luật phải ổn định để người dân kịp lập kế hoạch, điều chỉnh kế hoạch, chuẩn bị các điều kiện vật chất để thực thi kế hoạch.

Yêu cầu đặt ra đối với các nhà lập pháp là phải bảo đảm để pháp luật không chỉ là tấm gương phản ánh cuộc sống mà còn phải có tính dự báo trước những nhu cầu, biến động của cuộc sống, tránh tình trạng luật vừa ban hành đã phải liên tục sửa đổi, bổ sung. Không để xảy ra những cú sốc bất ngờ do sự thay đổi của các văn bản, quy định pháp luật. Sự thay đổi bất ngờ, tần suất quá cao đều gây ra những hậu quả bất lợi cho các cá nhân, cho cộng đồng và rộng ra là cho toàn xã hội. Từ đó, niềm tin của người dân vào pháp luật, chính quyền giảm sút, có thể tạo ra sự phản ứng rất khó kiểm soát từ phía người dân.

Tần suất thay đổi pháp luật quá cao như lâu nay cũng là một trong những nguyên nhân cơ bản tạo nên sự “lạm phát” pháp luật, sự mâu thuẫn, chồng chéo của hệ thống pháp luật hiện nay ở nước ta. Yêu cầu về tính ổn định của pháp luật đặt ra yêu cầu phải ổn định từ chính sách, đường lối chính trị và sự lãnh đạo sát sao, quyết liệt từ phía các tổ chức đảng. Đây cũng là một trong những đòi hỏi mới của Nhà nước pháp quyền đối với sự lãnh đạo của Đảng.

- Tính có thể dự đoán trước của pháp luật: đây chính là một trong những nguyên nhân mà Chính phủ, Quốc hội phải lập chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hằng năm và từng nhiệm kỳ để kế hoạch lập pháp có tính chiến lược, trong đó dự đoán được những lĩnh vực xã hội đang có nhu cầu điều chỉnh bằng một đạo luật, hoặc những đạo luật nào cần sửa đổi, bổ sung để phù hợp với thực tiễn cuộc sống.

Pháp luật phải công khai, minh bạch, dễ hiểu, thống nhất, dễ vận dụng, dễ dàng truy cập, có độ tin cậy cao. Nhà nước phải đáp ứng nhu cầu thông tin về pháp luật, về các hoạt động thực tiễn pháp lý cho cá nhân và tổ chức. Đây là sự đổi mới tư duy pháp lý trong nhận thức và hành động khi chúng ta bước vào xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhất là khi tham gia ký kết, thực hiện các hiệp định hợp tác thương mại với nước ngoài.

Minh bạch, công khai đang là một yêu cầu đặt ra đối với việc xây dựng và thực thi pháp luật của nước ta hiện nay. Để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì không thể thiếu tính minh bạch, tính công khai của hệ thống pháp luật, sự tham gia của Nhân dân trong quá trình hoạch định chính sách và pháp luật, bảo đảm yêu cầu dân chủ hóa hoạt động lập pháp.

Thứ bảy, Nhà nước có nghĩa vụ tuân thủ các cam kết quốc tế đã ký kết hay công nhận. Đây thực sự là những thách thức lớn đối với Nhà nước, bởi lẽ, chúng ta có một nền tảng văn hóa pháp lý có nhiều yếu tố khác biệt với thế giới. Bên cạnh rất nhiều yếu tố tích cực, thuận lợi, chúng ta vẫn còn có yếu tố lạc hậu trong tư duy, quan niệm và cách xử lý vấn đề về pháp luật, nhà nước. Những năm gần đây, Nhà nước ta đã tích cực nội luật hóa các công ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết và công nhận.

Xây dựng Nhà nước pháp quyền là quá trình lâu dài bao gồm nhiều nhiệm vụ cấp bách và thường xuyên, lâu dài. Cần phải thiết lập và có cơ chế hữu hiệu để kiểm soát tính pháp quyền trong đời sống nhà nước và xã hội dựa trên các yêu cầu, đặc trưng mang tính nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền.

Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Xây dựng Nhà nước pháp quyền là một yêu cầu tất yếu khách quan ở nước ta và cũng là xu thế chung của thời đại. Đường lối xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định, trong đó, Nhà nước là trụ cột của hệ thống chính trị: “Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”4.

Tiếp thu chọn lọc lý luận, kinh nghiệm xây dựng Nhà nước pháp quyền của các quốc gia trên thế giới, vận dụng vào điều kiện cụ thể của đất nước, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã và đang được thực hiện với nhiều thành tựu bước đầu. Xác định những đặc điểm cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam sẽ giúp đề ra được những giải pháp thích hợp để thực hiện tốt và có hiệu quả những nhiệm vụ đặt ra trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tại Điều 2 Hiến pháp năm 2013 quy định tính chất Nhà nước pháp quyền Việt Nam: “1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. 2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. 3. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.

Những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thể hiện như sau:

Một là, là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân. Điều 2, Hiến pháp năm 2013 đã xác định: “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân”.

Hai là, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Đây vừa là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta, vừa là quan điểm chỉ đạo quá trình thực hiện việc cải cách bộ máy nhà nước. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã bổ sung đầy đủ hơn về cơ chế tổ chức quyền lực nhà nước, đó chính là yếu tố kiểm soát quyền lực nhà nước, cả bên trong và bên ngoài Nhà nước.

Ba là, Hiến pháp, đạo luật có vị trí tối cao trong hệ thống pháp luật, nguyên tắc thượng tôn pháp luật phù hợp đạo đức xã hội. Nhà nước đại diện cho Nhân dân thực thi quyền lực và đặt ra pháp luật, nhưng trong tổ chức và hoạt động phải thừa nhận và thực hành nguyên tắc quyền lực của pháp luật, biết đặt mình dưới Hiến pháp, pháp luật, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật.

Hệ thống pháp luật phải thể hiện các giá trị công bằng, nhân đạo, dân chủ, vì quyền, lợi ích chính đáng của con người, sự tự do, phát triển của cá nhân, hài hòa các loại lợi ích cá nhân, cộng đồng, Nhà nước và xã hội. Bảo đảm tính minh bạch, công khai trong xây dựng, thực thi pháp luật. Xây dựng lối sống tôn trọng, tuân thủ pháp luật trong Nhân dân, cán bộ, đảng viên;

Bốn là, Nhà nước ta tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân, nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, thực hiện dân chủ, bảo đảm tuân thủ pháp luật một cách có văn hóa, đạo đức, vận dụng đúng tinh thần của pháp chế trong Nhà nước pháp quyền, xử lý hài hòa mối quan hệ giữa tính hợp pháp và hợp lý xét theo tiêu chí quyền con người.

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có trách nhiệm bảo đảm điều kiện để mỗi cá nhân có điều kiện, cơ hội phát triển, bình đẳng trước pháp luật, trước Tòa án. Nhà nước cam kết, tôn trọng trên thực tế và bằng pháp luật các quyền, lợi ích hợp pháp, danh dự và nhân phẩm của công dân. An toàn, công lý, lẽ phải được bảo vệ bằng hệ thống pháp luật, bằng các thiết chế, phương thức của Nhà nước và xã hội. Pháp luật là phương tiện để con người đạt đến tự do trên cơ sở tôn trọng đạo đức xã hội;

Năm là, Nhà nước tôn trọng và thực hiện đầy đủ các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia.

Sáu là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức và hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội đã được lịch sử và toàn dân tộc Việt Nam thừa nhận, được cụ thể hóa trong các bản Hiến pháp. Khoản 1 Điều 4 Hiến pháp năm 2013 ghi rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”.

PGS. TS. VŨ TRỌNG LÂM

Phó Giám đốc - Phó Tổng Biên tập

Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật

1. Hồ Văn Thông: Hệ thống chính trị ở các nước tư bản phát triển hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998.

2. Quốc hội: Báo cáo công tác của Quốc hội nhiệm kỳ Quốc hội khóa X, 2011.

3. Đào Trí Úc: “Vấn đề Nhà nước pháp quyền và sự cần thiết xây dựng mô hình tổng thể bộ máy nhà nước ta”, Tạp chí Cộng sản, số 23 năm 2001, tr.40.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2001, tr. 131-132.

Bình luận