Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản với sự nghiệp giải phóng con người ở nước ta hiện nay

Ngày đăng: 23/02/2018 - 15:02

Tóm tắt: Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản là tác phẩm kinh điển của C. Mác và Ph. Ăngghen, xuất bản lần đầu vào tháng 2-1848 ở Luân Đôn, Anh. Tác phẩm được coi là Cương lĩnh hành động của các đảng cộng sản cũng như phong trào cách mạng của giai cấp công nhân quốc tế. Trong đó, tư tưởng về giải phóng con người là nội dung cốt lõi, cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển con người ở Việt Nam.

Từ khóa: Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, phong trào cách mạng, giải phóng con người

Trải qua 170 năm, từ khi Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản ra đời tháng 2-1848 đến nay, lịch sử nhân loại đã có rất nhiều thay đổi. Trong bối cảnh phức tạp của tình hình chính trị quốc tế, những khó khăn và sự thoái trào của chủ nghĩa xã hội (CNXH) hiện thực, đã có một số người bi quan, lo sợ; một số khác phê phán, bài xích chế độ, phủ nhận những tư tưởng lý luận được trình bày trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Họ cho rằng con đường đi lên CNXH chỉ là con đường vòng, để rồi lại quay về với chủ nghĩa tư bản (CNTB); chỉ có CNTB mới có điều kiện để thực hiện những ước mơ của con người về một xã hội phồn vinh, ấm no, hạnh phúc và ở đó, con người mới được giải phóng triệt để… Những luận điệu như vậy đã làm phân tâm một bộ phận nhân dân, kể cả một số cán bộ, đảng viên, đặc biệt là trong điều kiện tình hình chính trị đầy biến động và phức tạp như hiện nay. Đây cũng là những biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” mà Hội nghị Trung ương 4 khóa XII đã chỉ ra. Do vậy, chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu, khẳng định rõ những nguyên lý trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, trong đó tư tưởng về giải phóng con người là vấn đề có vai trò đặc biệt quan trọng.

1. Tư tưởng về giải phóng con người trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản - Giá trị mang tính thời đại

Trước C. Mác đã xuất hiện nhiều nhà tư tưởng lớn, thông qua những tác phẩm lý luận của mình, đề xướng những con đường, xu hướng nhằm thay xã hội đương thời bằng xã hội công bằng, tốt đẹp hơn. Nhưng, tất cả đều chưa đưa ra được những giải pháp hữu hiệu, chưa nhận thức đầy đủ về lực lượng cách mạng có khả năng thực hiện sứ mệnh lịch sử đó. Sự thay đổi chỉ thực sự diễn ra khi C. Mác và Ph. Ăngghen xuất hiện, với chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử được xác lập, đã luận giải một cách khoa học về quy luật vận động khách quan của lịch sử phát triển xã hội; phân tích sâu sắc các mâu thuẫn trong xã hội tư bản chủ nghĩa, phát hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là thủ tiêu CNTB; xây dựng thành công CNXH, chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn thế giới. Đó là một xã hội không còn đối kháng giai cấp, không còn người bóc lột người, một xã hội: “Thay cho xã hội tư sản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”1. Bên cạnh đó, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản luôn gắn chặt vấn đề giải phóng con người với vấn đề giải phóng giai cấp và giải phóng dân tộc. Bởi lẽ, giai cấp vô sản ở tất cả các nước đều có chung một mục đích là xây dựng xã hội tốt đẹp, công bằng và bình đẳng, không có áp bức bóc lột, đều chung một lợi ích và cùng đấu tranh chống lại giai cấp tư sản trên phạm vi toàn thế giới. Thắng lợi của giai cấp vô sản đối với giai cấp tư sản là dấu hiệu giải phóng tất cả các dân tộc bị áp bức. Tuyên ngôn viết: “Hãy xóa bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xóa bỏ”2. Đồng thời, Tuyên ngôn cũng khẳng định, khi sự đối kháng giữa các giai cấp trong nội bộ dân tộc không còn nữa, thì sự thù địch giữa các dân tộc cũng đồng thời mất theo, giải phóng giai cấp và giải phóng dân tộc luôn gắn bó chặt chẽ với nhau. Giai cấp vô sản không chỉ có sứ mệnh xóa bỏ sự khác biệt giai cấp, áp bức bóc lột, mà đồng thời còn xóa bỏ sự khác biệt giữa các dân tộc, xóa bỏ nạn dân tộc này áp bức dân tộc khác. Tuy mục tiêu chính trị chủ yếu của giai cấp vô sản là xóa bỏ mọi áp bức giai cấp để thủ tiêu vĩnh viễn chế độ người bóc lột người, song mục tiêu đó chỉ có thể đạt được khi gắn việc xóa bỏ áp bức dân tộc với vấn đề giải phóng dân tộc: “Vì giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc, tuy hoàn toàn không phải theo cái nghĩa như giai cấp tư sản hiểu”3.

Có thể thấy rằng, tư tưởng về giải phóng con người được xem là một trong những nội dung cốt lõi trong học thuyết của C. Mác và Ph. Ăngghen về xã hội, là điểm xuất phát trong cách đặt vấn đề xây dựng một xã hội công bằng, bình đẳng, không có áp bức bóc lột. Cả C. Mác và Ph. Ăngghen đều xác định lực lượng xã hội có sứ mệnh thực hiện thành công sự nghiệp giải phóng con người, giải phóng nhân loại là giai cấp vô sản. Thông qua đội tiên phong là đảng cộng sản, giai cấp vô sản mới có thể thay đổi một cách căn bản địa vị giai cấp mình và các tầng lớp nhân dân lao động khác bằng một cuộc cách mạng xã hội lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, xây dựng xã hội mới - xã hội cộng sản chủ nghĩa (xã hội không có giai cấp). Tuyên ngôn cũng cho rằng: sự nghiệp giải phóng con người, phát triển con người toàn diện không phải là việc làm giản đơn, nhất thời, mà đó là một quá trình lâu dài, phức tạp, đầy những bước thăng trầm, song nhất định đi đến thắng lợi cuối cùng. Chỉ CNXH mới có khả năng giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột, đem lại sự phát triển toàn diện cho con người với tính cách là mục tiêu cao nhất.

Tư tưởng về giải phóng con người trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã từng bước được hiện thực hóa, điều này bắt đầu từ thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917. Rõ ràng, sức mạnh và tính ưu việt của CNXH hiện thực ở Liên Xô đã được thể hiện rõ trong thực tiễn, không ai có thể phủ nhận. Chính CNXH đã tạo ra những điều kiện tốt nhất để con người tự vươn lên, hoàn thiện mình, làm chủ xã hội, làm chủ tự nhiên và làm chủ bản thân. CNXH hiện thực ở Liên Xô đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…, điều này khiến CNTB phải lo sợ, tìm cách chống phá quyết liệt và buộc phải tự điều chỉnh, thích nghi để tồn tại, phát triển. Tuy nhiên, sau sự sụp đổ của mô hình CNXH hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu, quá trình xây dựng CNXH đang gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng các nước phát triển theo mô hình CNXH đã và đang tìm ra phương thức phù hợp để tồn tại, phát triển và khẳng định tính đúng đắn, khoa học của con đường đã lựa chọn.

Thời gian qua, lợi dụng tình hình phức tạp và CNXH đang tạm thời thoái trào, các học giả tư sản, các lực lượng thù địch không ngừng rêu rao, bài xích, công kích, xuyên tạc những tư tưởng cơ bản trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, từ đó nhằm phủ định quá trình xây dựng CNXH hiện thực và khả năng giải phóng con người trong CNXH. Tuy vậy, dù có gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng tư tưởng về giải phóng con người trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản vẫn luôn giữ nguyên giá trị ban đầu của nó. Bởi lẽ, đó là tư tưởng cơ bản của học thuyết cách mạng, khoa học, mang tính nhân văn, phù hợp với ước mơ, nguyện vọng của đông đảo quần chúng nhân dân lao động trên toàn thế giới.

2. Giá trị của tư tưởng về giải phóng con người trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển con người ở Việt Nam

Trong suốt 88 năm qua, kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập ngày 3-2-1930, giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn thấu triệt tư tưởng về giải phóng con người trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Trên cơ sở đó, luôn kiên định với mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH, đó cũng là bài học kinh nghiệm xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam. Từ Cương lĩnh đầu tiên của Đảng do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo đến nay, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta luôn nhất quán khẳng định con đường của cách mạng Việt Nam là con đường giải phóng dân tộc gắn liền với con đường đi lên CNXH. Đây là sự lựa chọn duy nhất để đưa nhân dân ta thoát khỏi thân phận nô lệ, được trở thành người dân của một nước dân chủ, tự do, tiến bộ. Thực tế hơn ba mươi năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, có ý nghĩa lịch sử, tạo tiền đề cho chặng đường quá độ lên CNXH. Trong đó, các thành quả về giải phóng con người có giá trị nổi bật như: đời sống của nhân dân không ngừng được cải thiện và nâng cao; quyền con người, quyền công dân được đảm bảo thực thi bằng Hiến pháp, pháp luật; mọi người dân đều có điều kiện phát huy tài năng, cống hiến hết mình cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng như cho lợi ích của chính mình. Điều này được Đại hội XII của Đảng ta chỉ rõ: “Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng an ninh được tăng cường. Văn hóa - xã hội có bước phát triển; bộ mặt đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng”4. Mặc dù vậy, chúng ta cũng đang gặp những khó khăn, thách thức lớn cần phải vượt qua, cùng với đó là những tiêu cực nảy sinh từ mặt trái của kinh tế thị trường như: tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí, dân chủ hình thức, lối sống thực dụng, cục bộ địa phương, cá nhân chủ nghĩa, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”,… hoàn toàn xa lạ với bản chất của chế độ XHCN. Đáng chú ý, kết quả của sự nghiệp giải phóng con người còn chưa toàn diện và công bằng: “Trên một số mặt, một số lĩnh vực, một bộ phận nhân dân chưa được thụ hưởng đầy đủ, công bằng thành quả của công cuộc đổi mới”5. Những khó khăn, thách thức trên đã ảnh hưởng trực tiếp đến con đường quá độ lên CNXH của Đảng và nhân dân ta, song với niềm tin vào tư tưởng giải phóng con người trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản và lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”6, đồng thời, từ các bài học kinh nghiệm của tiến trình cách mạng, tin tưởng rằng chúng ta sẽ vượt qua khó khăn, thách thức, sẽ chiến thắng vì mục tiêu cao nhất của CNXH là giải phóng triệt để con người khỏi mọi áp bức, bóc lột và bất công, mang lại cho con người cuộc sống bình đẳng trong tự do, ấm no, hạnh phúc.

Đối với cán bộ, đảng viên hiện nay, việc ý thức được sâu sắc mục tiêu của cách mạng xã hội chủ nghĩa thể hiện trong Tuyên ngôn có ý nghĩa rất quan trọng, sẽ giúp củng cố sự tin tưởng vào quan điểm, đường lối của Đảng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, sức mạnh nhân tố con người trong thực hiện hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, cần quán triệt sâu sắc quan điểm trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011): “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”7 và “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân”8. Điều này được Đại hội XII của Đảng kế thừa và nhấn mạnh: “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển”9.

Rõ ràng, phải trải qua quá trình đấu tranh lâu dài, gian khổ hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ, thống nhất nước nhà, đưa đất nước quá độ lên CNXH, chúng ta mới có điều kiện để bồi dưỡng và phát huy tối đa nhân tố con người. Quán triệt sâu sắc quan điểm, tư tưởng trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản còn có ý nghĩa quan trọng trong đấu tranh chống các thế lực thù địch, nhất là việc lợi dụng và sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, coi “nhân quyền” cao hơn chủ quyền, xuyên tạc học thuyết đấu tranh giai cấp, phê phán, phủ nhận giá trị của Tuyên ngôn để tuyên truyền, thẩm thấu vào nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân ta “nọc độc” phi chính trị, phi giai cấp; truyền bá vào xã hội ta chủ nghĩa “nhân bản, nhân văn tư sản”, cổ vũ khuynh hướng tự do hóa, dân chủ hóa, kích động trí thức và thanh niên ta chống Đảng, chống chế độ.

Suy ngẫm về những sự kiện và biến cố lịch sử trong suốt 170 năm trên thế giới và ở nước ta, từ khi tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản ra đời, chúng ta cảm nhận sâu sắc về tính cách mạng, tính khoa học và tính nhân đạo, nhân văn của Tuyên ngôn: sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người. Đó là cơ sở xã hội khẳng định sức sống của bản Tuyên ngôn bất hủ mà C. Mác và Ph. Ăngghen đã xây dựng.

Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản là tác phẩm kinh điển của CNXH khoa học; là cương lĩnh chính trị của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế; là kim chỉ nam cho hoạt động của các đảng cộng sản ở từng nước cũng như trên toàn thế giới. Trải qua 170 năm, tư tưởng về giải phóng con người trong Tuyên ngôn vẫn giữ nguyên giá trị. Ở nước ta hiện nay, Đảng ta nhất quán kiên định với mục tiêu xây dựng CNXH, vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đây chính là sự vận dụng sáng tạo những tư tưởng, những nguyên lý trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản về giải phóng con người vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.

Thiếu tá, ThS. Trịnh Quốc Việt

Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng

1, 2, 3. C. Mác - Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 4, tr. 628, 624, 623-624.

6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 4, tr. 175.

7, 8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 70, 76.

4, 5, 9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 65-66, 67-68, 126.

Bình luận