Lịch sử tư tưởng triết học pháp quyền Đức từ thế kỷ XVIII đến thế kỷ XX

Ngày đăng: 23/04/2018 - 09:04

lịch sử tư tưởng triết học133Ra đời và phát triển cùng với triết học từ cổ đại, triết học pháp quyền phương Tây, trong đó có triết học pháp quyền Đức từ thế kỷ XVIII đến thế kỷ XX, đã để lại cho nhân loại nhiều tư tưởng có giá trị, ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự hình thành và phát triển các thể chế chính trị pháp quyền trên thế giới. Nhằm giúp bạn đọc tìm hiểu, nghiên cứu lịch sử tư tưởng triết học pháp quyền, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật cho ra mắt cuốn sách Lịch sử tư tưởng triết học pháp quyền Đức từ thế kỷ XVIII đến thế kỷ XX do TS. Ngô Thị Mỹ Dung làm chủ biên.

Dựa trên nguồn tài liệu phong phú từ nguyên bản tiếng Đức, nội dung cuốn sách phân tích một cách có hệ thống tư tưởng triết học pháp quyền Đức từ thế kỷ XVIII đến thế kỷ XX. Từ đó, đưa ra những nhận định về những giá trị và hạn chế của các tư tưởng pháp quyền Đức trong từng giai đoạn lịch sử nhằm giải quyết bốn vấn đề chính:

Thứ nhất, khái quát về triết học pháp quyền với những hệ tư tưởng pháp quyền cơ bản; phân tích mối quan hệ giữa triết học pháp quyền với triết học đạo đức, lý luận pháp quyền và triết học chính trị.

Thứ hai, khái quát điều kiện kinh tế - xã hội và tiền đề lý luận ảnh hưởng đến tư tưởng pháp quyền Đức thế kỷ XVIII; trình bày và phân tích những nội dung cơ bản của tư tưởng triết học pháp quyền Đức thế kỷ XVIII thông qua một số nhà triết học tiêu biểu như Christian Thomasius (1655 - 1728), Christian Wolff (1679 - 1754), Immanuel Kant (1724 - 1804), trên cơ sở đó đưa ra những nhận định về những giá trị và hạn chế của những tư tưởng trên.

Thứ ba, khái quát bối cảnh lịch sử xã hội Tây Âu và Đức thế kỷ XIX; trình bày và phân tích những nội dung cơ bản của tư tưởng triết học pháp quyền Đức thế kỷ XIX đưa ra những đánh giá về những giá trị và hạn chế của những tư tưởng trên.

Thứ tư, khái quát bối cảnh lịch sử xã hội Tây Âu và Đức thế kỷ XX; trình bày và phân tích những nội dung cơ bản của tư tưởng triết học pháp quyền Đức thế kỷ XX thông qua một số nhà triết học tiêu biểu như Gustav Radbruch (1878 - 1949) và Athur Kaufmann (1923 - 2001); nêu ý nghĩa của việc nghiên cứu tư tưởng triết học pháp quyền Đức từ thế kỷ XVIII đến thế kỷ XX đối với quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay.

Được kết cấu một cách khoa học, có hệ thống, đồng thời được viết dựa trên nhiều tài liệu tham khảo có giá trị, cuốn sách cho thấy, lịch sử tư tưởng triết học pháp quyền Đức từ thế kỷ XVIII đến thế kỷ XX vừa là sự phản ánh của điều kiện kinh tế - xã hội, lịch sử, văn hóa Đức qua nhiều thế kỷ với những đặc trưng riêng của nó, vừa chứa đựng trong nó những giá trị pháp quyền chung của lịch sử tư tưởng triết học pháp quyền phương Tây. Tuy nhiên, không phải nhà triết học Đức nào cũng nghiên cứu về triết học pháp quyền, và không phải học thuyết triết học pháp quyền nào cũng có giá trị. Các nhà triết học Đức đã đề cao vai trò của lý tính con người, khẳng định quyền tự nhiên của con người là bất khả xâm phạm.

Bên cạnh đó, họ cũng đưa ra những tư tưởng pháp quyền thể hiện những nét đặc trưng riêng của dân tộc Đức, hướng tới những giá trị nhân văn sâu sắc. Chẳng hạn, về khái niệm của Radbbruch, theo đó “pháp quyền là hiện thực, mà ý nghĩa của nó là phục vụ công lý” và sự cụ thể hóa khái niệm này bằng cách nhấn mạnh những yếu tố sau đây: Thứ nhất, pháp quyền là một hiện thực, bởi vậy, nó phải mang tính thực chứng; thứ hai là, tính quy phạm (tính chất yêu cầu); thứ ba là, vì mục tiêu công bằng, pháp quyền phải tạo sự bình đẳng cho tất cả mọi người, bởi vậy nó có bản chất khái quát (generelle Natur); thứ tư là, công bằng đòi hỏi thực hiện sự phồn vinh cộng đồng, bởi vậy, pháp quyền phải mang tính xã hội.

Còn theo Kaufmann, thể hiện quan điểm về pháp quyền nằm ngoài luật tự nhiên và chủ nghĩa thực chứng pháp quyền. Tuy nhiên cũng theo quan điểm này, sẽ là phiến diện nếu người ta xem đây là quan niệm cuối cùng, bởi vì nó còn thiếu một số phương diện. Tính thực chứng trước hết có nghĩa là tính an toàn pháp luật, còn tính quy phạm chứa đựng tính nghĩa vụ của luật, tính toàn thể có ý nghĩa trước hết là sự cấm độc đoán, và tính xã hội có cũng bao hàm ý nghĩa rằng luật giữ chuẩn mực và không đòi hỏi ai quá sức. Mặt khác, hai phương diện thiếu ở đây là những phương diện mà người ta bắt gặp khi bàn về khái niệm pháp quyền, đó là tự do và cưỡng chế. Một đạo luật công bằng bảo đảm tự do chung thông qua giới hạn sự độc đáo của cá nhân.

Đỉnh cao của tư tưởng triết học Đức thế kỷ XIX được thể hiện trong tư tưởng Mác và Ăngghen. Phê phán tư duy tư biện, thần bí, duy tâm, phi lịch sử của triết học pháp quyền Hegel, Mác cho rằng chủ quyền nhà nước, quyền lập pháp và hiến pháp thuộc về nhân dân. Để những quyền lực đó thuộc về nhân dân thì chế độ nhà nước đó phải là chế độ dân chủ. Tư tưởng pháp quyền của Mác và Ăngghen đã trở thành cơ sở lý luận cho cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới từ những năm cuối của thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đến nay.

Mặc dù cách thức lập luận có khác nhau, nhưng nhìn chung, tư tưởng pháp quyền Đức thế kỷ XIX đều quan tâm đến vấn đề tự do của con người cũng như cách thức tổ chức quyền lực nhà nước nhằm bảo đảm cho những quyền tự do đó được thực thi. Mặc dù còn nhiều hạn chế bởi tính quy định của lịch sử thời đại, nhưng nhìn chung việc nghiên cứu tư tưởng pháp quyền Đức từ thế kỷ XVIII đến thế kỷ XX có ý nghĩa nhất định đối với việc xây dựng và hoàn thiện tư tưởng về một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.

Đọc cuốn sách, không chỉ giúp chúng ta hiểu được tư tưởng triết học pháp quyền Đức mà còn hiểu hơn về lịch sử, xã hội, con người phương Tây nói chung và Đức nói riêng, cùng những giá trị nhân văn ẩn chứa sâu trong mỗi tư tưởng triết học. Với ý nghĩa lý luận và thực tiễn đó, cuốn sách Lịch sử tư tưởng triết học pháp quyền Đức (Từ thế kỷ XVIII đến thế kỷ XX) thực sự là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho những ai quan tâm muốn tìm hiểu, nghiên cứu về lịch sử tư tưởng triết học phương Tây.

Bình luận