Chủ thuyết chính trị Việt Nam trong thời đại ngày nay (Tiếp theo và hết)

Ngày đăng: 01/12/2014 - 08:12

Tiếp tục đi con đường thời đại, kiên định, đổi mới, sáng tạo

486aa

Ý kiến bác bỏ sự khẳng định rằng, thời đại chúng ta vẫn là thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới, là một bước lùi về lập trường chính trị cơ bản, một biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị. Bởi vì, nếu thời đại hiện nay không còn là thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới nữa, thì đất nước Việt Nam chúng ta, Ðảng Cộng sản Việt Nam từ nay sẽ đi theo con đường nào? Và nếu vậy, thì phải chăng Cương lĩnh của Ðảng Cộng sảnViệt Nam đã lỗi thời, không còn căn cứ thời đại?

1. "Chuyển đổi" sang con đường TBCN chăng? Ðã có kiến nghị như thế. Tuy nhiên, nhân dân không thể đồng tình. Ðúng là sau thảm họa sụp đổ mô hình XHCN ở Liên Xô, Ðông Âu, CNTB căn bản chiếm lĩnh phần lớn trận địa thế giới. Nhưng vận mệnh và tiền đồ của CNTB sẽ như thế nào?

CNTB đã có lịch sử 500 năm. Nó đã có đóng góp to lớn cho lịch sử nhân loại. CNTB đã tạo ra lực lượng sản xuất không những đồ sộ, mà ngày càng hiện đại, tinh xảo, tinh vi, những máy móc "thông minh", những vật liệu, năng lượng kỳ diệu... Với nền đại công nghiệp, nó đã tạo ra thị trường thế giới thay cho tình trạng biệt lập trước đó của các địa phương và các dân tộc vốn trong nền kinh tế tự cung, tự cấp. Do xâm chiếm thuộc địa, bóp nặn thị trường thế giới, CNTB đã làm cho sản xuất và tiêu dùng của tất cả các nước mang tính thế giới. Chính CNTB đã có công làm cho lịch sử biến thành lịch sử thế giới. Nhưng đó là thế giới gì?

Trước Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, toàn bộ thế giới tư bản bao gồm các "chính quốc" và cả hệ thống thuộc địa của CNÐQ. Từ sau Tháng Mười 1917 đến 1991, thế giới phân chia thành hai hệ thống đối lập. Sau khi mô hình của CNXH hiện thực sụp đổ ở Liên Xô và Ðông Âu, CNTB chiếm lĩnh đa phần thế giới, bản đồ chính trị thế giới thay đổi căn bản. Lịch sử phải chăng "kết thúc" ở CNTB, tột đỉnh của văn minh loài người? Thực tiễn thế giới "hậu Xô-viết" đã sớm bác bỏ kết luận sai lầm ấy. Một điều cần ghi nhận: ngày nay ít ai còn mang ảo tưởng CNTB sắp chết đến nơi. Nhưng, rõ ràng là, số người tin tuyệt đối vào sức sống vĩnh hằng của CNTB cũng ngày càng ít dần. Xem ra đa số đánh giá: CNTB còn lâu mới tiêu vong, nhưng cuối cùng nhất định không tránh khỏi tiêu vong.

Thật ra, sức sống còn lại của CNTB, mà đôi khi có người choáng ngợp, một phần do nó vốn chưa thật cạn kiệt, còn một phần rất quan trọng là do những yếu kém, sai lầm dẫn đến sụp đổ cay đắng một mảng lớn CNXH hiện thực. Một sự thật nữa cũng đáng lưu ý là, tâm trạng hoan hỷ của phương Tây trước sự sụp đổ của Liên Xô chỉ là nhất thời. Sau đó, khi không có địch thủ đáng gờm phải đối mặt, thì những đầu óc ít nhiều tỉnh táo, sáng suốt của các học giả và chính khách phương Tây này đã bình tĩnh quay về nhìn lại bản thân CNTB, đã kịp thời cảnh báo: coi chừng nguy cơ đe dọa vận mệnh của CNTB vốn không phải từ phía CNXH, từ Liên Xô, mà chính từ trong lòng CNTB. Rõ ràng, CNTB cũng đang "tự phản tỉnh", "tự phê phán", đang thấy khó mà tự duy trì nếu không có phép gì màu nhiệm hơn những phép đã dùng gần như cạn kiệt để tự điều chỉnh, thích nghi.

Những khái niệm "xã hội hậu tư bản", hay "CNTB mới", "CNTB nhân dân"... mà một số học giả phương Tây ưa dùng nói lên hai mặt. Nó vừa là một sự ngụy biện rằng, CNTB đã không còn là CNTB nữa vì nó không còn bóc lột; vừa là - về khách quan - mặc nhiên thừa nhận chế độ tư bản đích thực, truyền thống, nguyên xi như bản thân nó đã hết lý do tồn tại, đã hết khả năng tự biện minh. Có nghĩa là, bản thân các nhà tư tưởng tư sản cũng đã mất niềm tin ở chính CNTB, đã mặc nhiên và gián tiếp phải nói đến một chế độ mới đang gõ cửa CNTB. Qua cuộc khủng hoảng tài chính kinh tế đang diễn ra, một số chính khách lớn ở phương Tây cũng dao động, giảm sút niềm tin ở chính CNTB. Cựu Tổng thống Pháp N.Xác-cô-di phải nói đến cải tổ CNTB và "đạo đức hóa" CNTB! (Ông ta có bức ảnh chụp đang đọc Bộ Tư bản của C.Mác). Bộ trưởng Tài chính Ðức đang tìm hiểu chủ nghĩa Mác, mong tìm lối ra cho khủng hoảng. Một đạo diễn người Ðức có ý định làm phim về C.Mác. Một số học giả Mỹ và châu Âu nói, "CNTB đang ở thế thoái trào". Dẫn ra những hiện tượng nêu trên, nhật báo Kinh tế Thụy Ðiển khẳng định: "Chính do khủng hoảng hiện nay mà sự hồi sinh chủ nghĩa Mác trở thành tất yếu". Tất nhiên, chúng ta không ảo tưởng rằng họ đã đi đến từ bỏ CNTB.

2. Vậy là thế giới đổi thay, nhưng thời đại không đổi thay. Ðảng ta, nhân dân ta, đất nước ta, nhất quyết tiếp tục đi con đường thời đại - con đường CNXH - với tư tưởng kiên định nhưng thường xuyên đổi mới, sáng tạo, phù hợp với những thay đổi của thực tiễn thế giới đang không ngừng thay đổi.

Nắm vững thời đại không thể dừng lại ở bản chất thời đại nói chung, mà trong mỗi thời điểm lịch sử cần nhận rõ cách mạng đang đứng ở đâu, ở thời kỳ nào, với những đặc điểm gì. Mặt khác, không chỉ thấy hiện tại, mà không thấy triển vọng, không thể chỉ thấy trước mắt, mà không thấy xu thế cơ bản lâu dài, không thể chỉ thấy cục bộ mà không thấy toàn cục. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH của Ðảng Cộng sản Việt Nam năm 1991 đã sáng suốt chỉ ra một tầm nhìn, một tư tưởng chiến lược cơ bản rất đúng đắn, sâu sắc: "CNXH hiện đứng trước nhiều khó khăn, thử thách. Lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co; song, loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới CNXH, vì đó là quy luật tiến hóa của lịch sử"1.

Mâu thuẫn cơ bản nhất của thời đại ngày nay là mâu thuẫn giữa CNTB với CNXH vẫn tồn tại, nhưng hình thái biểu hiện đã khác trước nhiều. Ðó không còn là mâu thuẫn giữa hai hệ thống thế giới đối lập, nhưng cũng không phải sau khi CNXH bị sụp đổ một mảng lớn, thì mâu thuẫn đó biến mất. Ngoài một số nước XHCN còn lại, khá có trọng lượng, phải kể đến phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào đấu tranh chống CNÐQ, vì hòa bình, độc lập và chủ quyền quốc gia, vì dân chủ và tiến bộ xã hội. Những phong trào này vẫn là lực lượng CNXH hoặc đồng minh tự nhiên của CNXH.

Hơn nữa, cần tính đến những yếu tố mầm mống đang tồn tại trong lòng CNTB, mà xu hướng khách quan của chúng là ngày càng lớn lên theo chiều phủ định những quan hệ TBCN. Học thuyết duy vật lịch sử chứng minh rằng, sự phát triển của loài người, sự chuyển biến từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác, suy đến cùng, luôn được thực hiện trên cơ sở phát triển nền sản xuất vật chất và lực lượng sản xuất của xã hội. Ở giai đoạn hiện nay, sự phát triển rất cao của lực lượng sản xuất dưới tác động của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang sinh ra những xu hướng phát triển, về khách quan mang tính đối kháng với quan hệ sản xuất TBCN, đồng thời tự phát tạo ra những cơ sở và tiền đề dẫn tới chế độ mới - chế độ XHCN. Tất nhiên, chế độ xã hội mới không thể ra đời mà không thông qua những biến đổi cách mạng về chế độ chính trị dưới hình thức này hay hình thức khác, bằng phương pháp này hay phương pháp khác, đấu tranh vũ trang hay bạo lực hòa bình, đấu tranh nghị trường kết hợp với nổi dậy của quần chúng.

Sự phát triển của lực lượng sản xuất ở giai đoạn xã hội hóa ngày càng cao hiện nay đang thúc đẩy những quá trình tập trung, sáp nhập, liên kết ngày càng cao, không chỉ trong phạm vi quốc gia, mà cả trên quy mô thế giới, không chỉ về lực lượng sản xuất, mà cả sở hữu tư bản thành những hình thức "CNTB tập đoàn" của các nhà tư bản kếch sù, thậm chí siêu quốc gia.

Rõ ràng, cái vỏ tư nhân TBCN đã quá chật chội so với nội dung sức sản xuất đồ sộ mà nó chứa đựng; thậm chí quá chật chội cả với hình thức sở hữu tư bản độc quyền tư nhân. Chính CNTB - một cách khách quan - đang tự phủ định mình và đang "làm việc" chuẩn bị cho tương lai của CNXH...

Một câu hỏi thường được nêu ra hiện nay là, phải đánh giá thế nào về CNTB toàn cầu hóa? Có người cho rằng, CNTB ở giai đoạn toàn cầu hóa hiện nay có sức sống hơn bao giờ hết. Nhận định ấy nhiều lắm chỉ đúng một nửa, còn một nửa không đúng lại là cái nửa thuộc bản chất của sự vật và quá trình. Toàn cầu hóa khi vai trò chủ đạo thuộc CNTB, xét về bản chất là một quá trình đầy mâu thuẫn, một quá trình vừa hợp tác, liên kết, vừa đấu tranh. Trong sâu xa là cả một cuộc đấu tranh giữa một bên là quyền lực và lợi ích chi phối, thao túng của những thế lực tư bản quốc tế, các nước TBCN, với một bên là chủ quyền và lợi ích của các quốc gia dân tộc. Ðó là mâu thuẫn ngay giữa các nước TBCN, giữa các tập đoàn tư bản với nhau. Ðó là mâu thuẫn giữa tăng trưởng của cải với phân phối không công bằng, dẫn tới phân cực giàu nghèo ngày càng tăng giữa các quốc gia và trong mỗi nước, giữa trung tâm với ngoại vi, giữa phương Bắc với phương Nam, phân cực ngày càng tăng trong lòng các nước tư bản phát triển. Ðó là mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế với tình trạng xuống cấp của văn hóa, đạo đức xã hội. Ðó là mâu thuẫn giữa hợp tác với đấu tranh. Ðã hội nhập thì có hai mặt, vừa cạnh tranh quyết liệt vừa vẫn phải hợp tác, bản thân hợp tác cũng lại là đấu tranh, là kết quả của đấu tranh. Một mâu thuẫn nữa đặc trưng cho các nước như Việt Nam là ngoài độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, còn có con đường CNXH mâu thuẫn với toàn cầu hóa TBCN khống chế, với sức ép đi con đường TBCN bằng tự do hóa, tư nhân hóa kinh tế, dân chủ, nhân quyền, truyền bá tư tưởng phản động, từ đó chuyển hóa dần tổ chức, cán bộ và chế độ chính trị. Cùng với những mâu thuẫn xã hội nói trên, ngày càng nổi lên một mâu thuẫn lớn giữa xã hội với tự nhiên, biểu hiện ở hiểm họa ngày càng tăng đối với đời sống con người do ô nhiễm và tàn phá môi trường sống, hậu quả của cuộc chạy đua vì lợi nhuận mà thủ phạm chính là các lực lượng thị trường TBCN, hoặc chạy theo CNTB.

Toàn cầu hóa kinh tế, xét trên tầm nhìn rộng và lâu dài, xét về xu thế tương lai mà nó mở ra, là một nhân tố quan trọng của tiến bộ lịch sử, bởi lịch sử xã hội loài người, suy cho cùng là từ trình độ kỹ thuật này tiến lên trình độ kỹ thuật khác, từ sức sản xuất thấp đến sức sản xuất cao, đưa đến những nấc thang cao hơn của tiến bộ xã hội và khiến "lịch sử càng biến thành lịch sử thế giới" (C.Mác), mà đỉnh cao sẽ là xã hội cộng sản văn minh. Thế nhưng, toàn cầu hóa hiện nay đang do CNTB chủ đạo là một quá trình đầy những mâu thuẫn như đã đề cập.

Tóm lại, về phương diện lý thuyết, CNTB giai đoạn toàn cầu hóa tưởng như có thêm sức sống, nhưng không thể kéo dài mãi vận mệnh của nó như suy luận của một số người; trái lại, CNTB toàn cầu hóa ngày càng tích lũy thêm mâu thuẫn mới trên phạm vi toàn cầu cho tới khi mâu thuẫn tích tụ tới đỉnh điểm. Biện chứng "vật tắc cực phản" (Lão Tử) tất sẽ đưa CNTB đến chỗ diệt vong, đến chỗ được thay thế bằng một xã hội tiến bộ, văn minh hơn. Ðồng thời, với hệ thống thế giới toàn cầu hóa phát triển rất không đồng đều và đầy rẫy những bất bình đẳng, bất công và bất trắc, lý thuyết của V.I. Lênin về khả năng bùng nổ cách mạng trước hết ở những "khâu yếu trong sợi dây chuyền của CNÐQ" càng có cơ sở. Xu thế tả hóa và hướng đến "CNXH thế kỷ XXI" đang nổi lên ở các nước Mỹ latinh là một điển hình nổi bật thức tỉnh nhiều người, và chắc chắn sẽ còn diễn ra ở nhiều nơi khác trên thế giới.

Trong Tạp chí Die Woche của Ðức, số ra ngày 28-1-2000, tác giả Jan Puhl đã viết: "Trong vòng 20 năm qua, sự bần hàn và sự thừa thãi luôn đồng hành. Sự chênh lệch ngày càng tăng có thể trở thành ngòi nổ đối với nền dân chủ (= chế độ tư bản) trên phạm vi toàn cầu". Theo ông, "quá trình toàn cầu hóa đã hợp nhất những người vô sản trên thế giới vào cuộc đấu tranh mang tính toàn cầu".

Chủ tịch Câu lạc bộ Rôma, ông Ricácđô Diez Hochleitner (người Tây Ban Nha) đã viết: "Nghèo đói không chỉ là một vấn đề nghiêm trọng đối với những người bị đụng chạm trực tiếp. Khi tình trạng bần cùng hóa vẫn tiếp diễn như hiện nay, thì có nguy cơ sẽ nổ ra một cuộc cách mạng có thể đụng chạm đến các nước giàu. Khi khoảng cách giàu nghèo tiếp tục mở rộng, thì một ngày nào đó có thể sẽ xuất hiện một ông Mác và một ông Lênin với khẩu hiệu "Những người nghèo trên toàn thế giới hãy đoàn kết lại"2.

Việt Nam không có con đường nào khác ngoài con đường đã lựa chọn

Ðộc lập dân tộc và CNXH dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam, trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh từ năm 1930 đến nay và mãi từ nay về sau là chủ thuyết cách mạng nhất quán của Việt Nam, dứt khoát không thay đổi và không ai có thể thay đổi. Chủ thuyết này đã đưa cách mạng Việt Nam hơn 80 năm qua, đi từ thắng lợi lịch sử này đến thắng lợi lịch sử khác, hoàn thành giải phóng dân tộc, đưa cả nước quá độ từng bước lên CNXH thông qua kinh tế thị trường định hướng XHCN, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và sự nghiệp đổi mới, sáng tạo, không bảo thủ, giáo điều, chủ quan, duy ý chí.

Ở nước ta không có đất cho CNTB thống trị như một chế độ xã hội, không có đất cho chủ thuyết chính trị nào khác khả dĩ được nhân dân chấp nhận, ngoài độc lập dân tộc và CNXH dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản với ngọn cờ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Khách quan lịch sử mà nói, một chủ thuyết chính trị khác, chẳng hạn một "con đường thứ ba" nào đó, hoặc chủ nghĩa dân chủ xã hội mà ai đó đang mơ tưởng, đối lập với độc lập dân tộc và CNXH, dù có được tô vẽ ngụy trang thế nào đi nữa, thì rốt cuộc thực chất không thể có gì khác là một đường lối đưa dân tộc trở lại số phận nô lệ, hay phụ thuộc vào các thế lực đế quốc thực dân bành trướng từ bên ngoài.

Trong khi khẳng định điểm mạnh cơ bản của chủ thuyết cách mạng và phát triển Việt Nam, bên cạnh nhiều thuận lợi lớn, chúng ta vẫn không quên rằng, trên con đường đi tới đích còn vô vàn khó khăn và thách thức phải đối mặt, thậm chí còn những nguy cơ tiềm ẩn không thể xem thường. Bốn nguy cơ mà Hội nghị giữa nhiệm kỳ Ðại hội khóa VII (tháng 1-1994) nêu ra vẫn còn tồn tại. Có nguy cơ được giảm thiểu phần nào, có nguy cơ vẫn giữ nguyên, có nguy cơ tăng thêm và xem ra bốn nguy cơ còn gắn chặt với nhau hơn. Với Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2, khóa VIII) về chỉnh đốn Ðảng, cực kỳ quan trọng trong thực hiện Di chúc Bác Hồ, nhưng qua nhiều lần tổng kết cho thấy việc thực hiện chưa đạt yêu cầu.

Hiện nay, Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Ðảng đang được tích cực triển khai để kiên quyết thực hiện cho kỳ được.

Ði đôi với việc chống các nguy cơ, hoạt động cơ bản của toàn Ðảng, toàn dân ta hiện nay và lâu dài phải hướng chủ yếu vào xây dựng, sáng tạo. Về độc lập dân tộc, có còn vấn đề gì không? Còn, từ hai mặt chiến lược gắn kết với nhau là, vừa bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và an ninh quốc gia, vừa xây dựng, phát triển đất nước. Phải bảo vệ vững chắc Tổ quốc, và phải nhớ lời dạy của Bác Hồ: Ðộc lập rồi mà dân không được tự do, ấm no, hạnh phúc thì độc lập không có ý nghĩa gì. Nghĩa là, theo Bác, phải xây dựng cho được CNXH mới có độc lập dân tộc thật sự và bền vững.

Ðộc lập dân tộc ngày nay phải căn bản dựa trên kinh tế. Kinh tế không mạnh thì quốc phòng tất nhiên cũng yếu. Nước ta vốn là nước nông nghiệp lạc hậu, kém phát triển. Tình trạng này nếu không vượt qua được thì rồi độc lập dân tộc cũng lâm vào nguy cơ. Ngay bây giờ, dù đã qua bao công sức xây dựng và đổi mới, nhưng kinh tế nước ta vẫn chưa ra khỏi tình trạng gia công, lắp ráp, "làm thuê" cho nước ngoài. Việt Nam chưa có nền công nghiệp chế tạo, chế biến, công nghiệp nặng sản xuất tư liệu sản xuất với công nghệ cao, trong khi thế giới đang đi vào kinh tế hậu công nghiệp, kinh tế tri thức, kinh tế toàn cầu. Trong điều kiện đó, nếu không bứt phá lên thật nhanh thì kinh tế nước ta còn phụ thuộc nhiều vào bên ngoài, không thể nào có độc lập tự chủ về kinh tế và cả về các mặt khác, ngay cả mặt chính trị. Có người nói, trong toàn cầu hóa đa mô hình thì định hướng XHCN chỉ là một. Không có nước nào duy nhất chỉ có TBCN. Bởi vì CNXH và CNTB đích thực đã tìm rất nhiều mô hình để có thể tổng tích hợp vào nhau. Ý kiến này thật quá mơ hồ.

Toàn cầu hóa hiện nay đang do CNTB chủ đạo là một quá trình đầy rẫy những mâu thuẫn, nhưng không nước nào có thể đứng ngoài quá trình toàn cầu hóa. Nước ta đã và đang chủ động, tích cực hội nhập kinh tế toàn cầu với ý thức tranh thủ những mặt có lợi, tránh những tác động tiêu cực, có hại. Tuyệt đối hóa một cách phiến diện mặt nào đều không đúng. Về mặt tích cực, nước ta thông qua hội nhập kinh tế quốc tế, tranh thủ cho được lợi thế của nước đi sau, kế thừa cho được những thành quả văn minh loài người được tạo ra dưới chế độ tư bản...

So với các nước phát triển, ở các nước kém phát triển, cách mạng XHCN bắt đầu có thể tương đối dễ, nhưng để đưa đến đích cuối cùng, trọn vẹn CNXH, thì khó khăn hơn rất nhiều. Nước ta, trải qua những cách làm sai trước thời kỳ đổi mới (1986), đã thu được những bài học thấm thía cho thấy, không được ảo tưởng, chủ quan, duy ý chí, bất chấp quy luật khách quan.

Trọng tâm trong chủ thuyết cách mạng và phát triển Việt Nam hiện nay là quá độ từng bước xây dựng CNXH. Ðối với những nước lạc hậu về kinh tế, V.I. Lênin nhấn mạnh, thời kỳ quá độ lên CNXH là rất lâu dài, rằng trong cả thời kỳ quá độ phải có hàng loạt bước quá độ. Rõ ràng, với nền kinh tế nhiều thành phần, nước ta phải trải qua rất nhiều bước đẩy mạnh lực lượng sản xuất để công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng thời phải trải qua nhiều bước cụ thể, thích hợp, vững chắc xây dựng và phát triển quan hệ sản xuất mới, từ đó mới có được phương thức sản xuất XHCN đích thực. Ði đôi với nhiệm vụ xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, phải đẩy rất mạnh, thậm chí đi trước một bước trong phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học, chăm lo đời sống tinh thần của nhân dân, đẩy mạnh đào tạo nhân lực, phát triển nhân tài để thúc đẩy phát triển kinh tế.

Tiếp tục giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt từng được thử thách của đội tiên phong là Ðảng Cộng sản Việt Nam, Ðảng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất định thực hiện thành công chủ thuyết chính trị cách mạng và phát triển vĩ đại đã được lịch sử dân tộc lựa chọn. Quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh "Dĩ bất biến, ứng vạn biến", kết hợp nhuần nhuyễn, khôn khéo, thông minh tính kiên định về nguyên tắc chiến lược và mục tiêu không thay đổi với đầu óc uyển chuyển, tinh thần và khả năng thường xuyên đổi mới, sáng tạo phù hợp, đáp ứng tình hình quốc tế và đất nước đầy biến động nhanh và khôn lường - đó là bí quyết thành công trong sự nghiệp vĩ đại thực hiện chủ thuyết chính trị của Ðảng và dân tộc ta trong thời đại ngày nay.

GS, NGND NGUYỄN ÐỨC BÌNH, 
Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Ðảng

(Nguồn: Nhân Dân)

 

---------------------

(1). Ðảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Ðại hội Ðảng thời kỳ đổi mới (Ðại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.314.

(2). Thông tin tư liệu, số 7-2000 của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

 

 

 

 

Bình luận