Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước - thắng lợi vĩ đại của bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam
"Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc".
Đoạn văn trên đây trích trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV hào hùng như một "Đại cáo" của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX.
Trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam đã từng có nhiều thách thức ghê gớm: một nghìn năm Bắc thuộc; một nghìn năm bảo vệ nền độc lập chống lại các cuộc xâm lăng của các triều đình phong kiến phương Bắc, đặc biệt là ba lần chống quân Mông - Nguyên là đội quân xâm lược mạnh nhất thế giới hồi thế kỷ XIII; gần một trăm năm chống ách thống trị thực dân kiểu cũ và chiến tranh xâm lược của đế quốc Pháp; hai mươi mốt năm chống ách thống trị thực dân kiểu mới và chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ. Các cuộc thách thức đều lâu dài, ác liệt. Nhưng cuộc kháng chiến chống Mỹ là thách thức lớn nhất, ác liệt nhất đối với dân tộc ta.
Nhân dân ta đã phải đương đầu với đế quốc hùng mạnh nhất, giàu có nhất, tàn bạo, nham hiểm, hiếu chiến nhất. Cuộc chiến tranh kéo dài qua năm đời tổng thống Mỹ với một tương quan lực lượng chênh lệch nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta về phương thức sản xuất cũng như về tiềm lực kinh tế, quân sự.
Đế quốc Mỹ đã huy động vào cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam một khối lượng bom đạn, vật chất kỹ thuật chưa từng có trên một địa bàn tương đối hẹp; đã sử dụng mọi loại vũ khí hiện đại nhất trừ bom nguyên tử; đã đưa số quân Mỹ vào miền Nam lúc cao nhất lên tới hơn nửa triệu quân cùng với một lực lượng lớn hải quân, không quân chiến lược, chiến thuật, 7 vạn rưỡi quân các nước theo Mỹ và hơn một triệu quân ngụy, đó là một quân số kỷ lục cho một cuộc chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới, Mỹ đã thi thố mọi chiến lược, chiến thuật chính trị, quân sự, ngoại giao, đã dùng những thủ đoạn chiến tranh tàn bạo nhất: bao vây phong toả, khủng bố toàn diện, tàn phá kinh tế, tiêu diệt con người, phá huỷ môi trường bằng chất độc màu da cam, để lại hậu quả nặng nề cho nhiều thế hệ người Việt Nam và cả cựu binh Mỹ. Nhà Trắng và Lầu Năm Góc đã xuất các chiến lược gia, các tướng lĩnh bậc nhất để đấu trí với ta.
Việt Nam trở thành tiêu điểm của cuộc đấu tranh quyết liệt giữa cách mạng trên thế giới, là nơi đọ sức điển hình giữa tiến bộ và phản động, giữa chính nghĩa và phi nghĩa trong cuộc đấu tranh của nhân loại vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Trước thách thức to lớn ấy, khác với những ngày đầu kháng chiến chống Pháp, dân tộc ta bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ trong điều kiện mới. Quân và dân ta trong cả nước đã trải qua thử thách trong chiến đấu và tích luỹ được những kinh nghiệm quý báu trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Chúng ta đã có miền Bắc được giải phóng, nối liền với các nước xã hội chủ nghĩa anh em và được xây dựng ngày càng vững mạnh, trở thành hậu phương lớn cho tiền tuyến lớn miền Nam. Quân đội ta bước đầu được xây dựng chính quy, hiện đại; huấn luyện các đơn vị bộ đội tập kết để trở lại chiến trường, xây dựng nhiều binh đoàn chủ lực mạnh để chi viện cho miền Nam.
Bác Hồ đã sớm nhìn thấy âm mưu đen tối của Mỹ. Từ năm 1950, Bác đã chỉ ra sự dính líu và can thiệp của Mỹ vào chiến tranh Đông Dương. Để tranh thủ hoà bình, Bác đã 11 lần gửi thư cho Tổng thống Mỹ Truman. Trên chiến trường Điện Biên Phủ còn chưa tan mùi thuốc súng, cán bộ, chiến sĩ ta nhận được thư Bác khen, cuối thư Bác dặn: "Thắng lợi tuy lớn nhưng mới là bắt đầu", Bác đã nhìn xa, thấy trước. Khi tôi từ Điện Biên Phủ về căn cứ địa Việt Bắc, đến chào Bác, Bác nói: "Chúc chú thắng lợi trở về! Chúng ta còn phải đánh Mỹ!". Tại Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa II (7-1954) họp trước khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết mấy ngày, Đảng ta đã xác định: "Đế quốc Mỹ đang trở thành kẻ thù chính trực tiếp của nhân dân Đông Dương".
Bác Hồ và Đảng ta đã xác định đúng đắn đường lối cách mạng trong giai đoạn mới: tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng ở hai miền nhằm mục tiêu chung là chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất Tổ quốc; đã chỉ rõ mối quan hệ chiến lược giữa hai miền: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc là để tạo sức mạnh giải phóng miền Nam, đẩy mạnh đấu tranh cách mạng ở miền Nam là để giải phóng miền Nam và bảo vệ miền Bắc; miền Bắc có tác dụng quyết định nhất, miền Nam có tác dụng quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ trong cả nước. Đó là mối quan hệ khăng khít, ruột thịt giữa hậu phương lớn và tiền tuyến lớn, huy động sức mạnh của toàn dân để chiến thắng kẻ thù hung bạo. Đó cũng là biểu thị ý chí: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một”; “Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi".
Đảng ta đã kết hợp đúng đắn sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, kết hợp nghĩa vụ dân tộc với nghĩa vụ quốc tế, tăng cường đoàn kết liên minh chiến đấu giữa nhân dân ba nước Đông Dương, tăng cường đoàn kết giữa cách mạng Việt Nam với các trào lưu cách mạng trên thế giới, đoàn kết chặt chẽ với Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa anh em, trên cơ sở đó hình thành và phát triển một mặt trận hết sức rộng lớn của nhân loại yêu chuộng hoà bình và công lý trên thế giới kể cả nhân dân Mỹ đoàn kết với Việt Nam chống chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ.
Bác Hồ và Đảng ta đã xây dựng thành công cho toàn quân, toàn dân ta từ Nam chí Bắc tinh thần "Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược". Tinh thần quật cường bất khuất, quyết chiến quyết thắng mọi kẻ thù xâm lược vốn là truyền thống lâu đời của dân tộc Việt Nam. Trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, tinh thần ấy biểu hiện: "Đem sức ta mà tự giải phóng cho ta". "Thời cơ thuận lợi đã tới, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập". Trong kháng chiến chống Pháp, tinh thần ấy là: "Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ". Trong kháng chiến chống Mỹ, Bác Hồ đã triệu tập Hội nghị chính trị đặc biệt, đây là "Hội nghị Diên Hồng" thời đại Hồ Chí Minh, biểu thị quyết tâm của toàn dân chống Mỹ, cứu nước.
Quyết tâm đã xác định thì khó khăn mấy cũng kiên định quyết tâm. Khi Mỹ ồ ạt đưa quân vào miền Nam, dùng không quân và hải quân đánh phá miền Bắc, Bác Hồ đã khẳng định: "Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do!" ... "Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu, quét sạch nó đi". Đây là lời "hịch" thiêng liêng chống Mỹ, cứu nước. Quyết tâm đánh Mỹ, thắng Mỹ của Bác Hồ và của Đảng ta đã trở thành quyết tâm chiến đấu của toàn dân ta từ Nam chí Bắc.
Tất nhiên không phải chỉ có quyết tâm cao là có thể thắng Mỹ, nhưng trước hết phải dám đánh Mỹ thì mới tìm ra cách thắng Mỹ.
Quyết đánh và biết đánh, anh dũng và thông minh, chủ nghĩa anh hùng cách mạng và năng lực sáng tạo, đó là bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam vượt mọi thách thức.
Biết đánh là cả một quá trình sáng tạo, sáng tạo của lãnh đạo và sáng tạo của quần chúng trên cơ sở nắm vững quy luật cách mạng, quy luật chiến tranh cách mạng, quan điểm thực tiễn, biết địch biết ta, đánh giá đúng chỗ mạnh của địch để khắc phục, phát hiện đúng chỗ yếu của địch để khoét sâu, biết tập trung giáng đòn quyết định làm chuyển biến cục diện chiến tranh, giành thắng lợi từng bước, tiến tới thắng lợi cuối cùng.
Cao trào Đồng khởi là một sáng tạo lớn. Trên tinh thần Đề cương cách mạng miền Nam của đồng chí Lê Duẩn, đặc biệt là Nghị quyết 15 của Trung ương, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Xứ uỷ, sau này là Trung ương Cục do đồng chí Nguyễn Văn Linh làm Bí thư và các Khu uỷ, Tỉnh uỷ, đồng bào miền Nam vượt qua đau thương của một thời kỳ đen tối, vùng lên khởi nghĩa từng phần làm tan rã bộ máy kìm kẹp của nguỵ quyền ở cơ sở, giành lại phần lớn nông thôn, đẩy mạnh hoạt động ở đô thị. "Đội quân tóc dài" là một biểu hiện sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ của phụ nữ Việt Nam. Với Đồng khởi, cách mạng miền Nam đã chuyển sang thế tiến công. Mặt trận Dân tộc giải phóng và Quân giải phóng miền Nam ra đời đã tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ về thế và lực của cách mạng. Hình thức thống trị thực dân kiểu mới bằng bộ máy chính quyền tay sai độc tài không còn hiệu lực, Mỹ vội vàng chuyển sang dùng “Chiến tranh đặc biệt" - một hình thức đối phó nằm trong chiến lược "Phản ứng linh hoạt" mà đế quốc Mỹ dùng để chống lại các trào lưu cách mạng trên thế giới sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
Đánh bại "Chiến tranh đặc biệt" là cả một quá trình sáng tạo đưa cách mạng miềnNamtừ khởi nghĩa từng phần phát triển lên chiến tranh cách mạng. Nắm vững quy luật của đấu tranh vũ trang, của chiến tranh cách mạng, với phương châm "hai chân, ba mũi, ba vùng" tổng kết từ thực tiễn, quân và dân miền Nam đã phát huy sức mạnh của chiến tranh nhân dân, bẻ gãy các cuộc càn quét của quân nguỵ, phá rã hệ thống "ấp chiến lược" mà nguỵ quyền coi là quốc sách, đẩy mạnh đấu tranh chính trị và binh vận ở cả nông thôn và thành thị. Đấu tranh vũ trang từng bước phát triển. Chiến thắng Ấp Bắc báo hiệu khả năng đánh thắng các chiến thuật mới của quân đội nguỵ, mở ra phong trào "Thi đua Ấp Bắc" của quân và dân miềnNam. Các chiến dịch tiến công đầu tiên: Bình Giã, Ba Gia, Đồng Xoài, tiêu diệt từng tiểu đoàn đến chiến đoàn quân ngụy đánh dấu sự phá sản của chiến lược "Chiến tranh đặc biệt". Mỹ buộc phải chuyển sang chiến lược "Chiến tranh cục bộ".
Mỹ coi Việt Nam là trọng điểm của phong trào giải phóng dân tộc cần tiêu diệt để ngăn chặn các dân tộc trên thế giới vùng lên và chủ nghĩa cộng sản tràn xuống Đông Nam Á. Mỹ đã tiến hành "Chiến tranh cục bộ" đưa quân viễn chinh Mỹ vào trực tiếp tham chiến ở miền Nam, gây chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc hòng "bóp chết" cách mạng miền Nam và đưa "miền Bắc trở lại thời kỳ đồ đá", đặt ra cho nhân dân ta ở hai miền những thách thức chưa từng có.
Bác Hồ và Đảng ta đã đánh giá tình hình chiến lược mới một cách bình tĩnh, sáng suốt, tạo sự nhất trí cao trong toàn Đảng, toàn quân, toàn dân quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
Chính trong hoàn cảnh khó khăn, ác liệt, hiểm nghèo, bản lĩnh quyết đánh và biết đánh của dân tộc Việt Nam toả sáng. Chưa bao giờ khí thế đánh Mỹ dâng cao như lúc này. Cả nước sục sôi đánh Mỹ, toàn dân ra trận. Ở miền Nam nổi lên các phong trào “Dũng sĩ diệt Mỹ", “Tìm Mỹ mà đánh, tìm nguỵ mà diệt", “Bám thắt lưng Mỹ mà đánh", “Căng địch ra mà đánh, vây chúng lại mà diệt"... Ở miền Bắc có các phong trào “Mỗi người làm việc bằng hai", “Phụ nữ ba đảm đang", “Thanh niên ba sẵn sàng", “Tay cày tay súng”, “Tay búa tay súng", “Nhằm thẳng quân thù mà bắn", “Tiếng hát át tiếng bom", “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người", “Xe chưa qua, nhà không tiếc", “Xẻ dọc Trường Sơn đi đánh Mỹ"... Đường Trường Sơn, đường Hồ Chí Minh trên bộ và trên biển - con đường vận tải chiến lược - đã trở thành "con đường huyền thoại" phát huy sức mạnh của hậu phương lớn chi viện cho tiền tuyến lớn.
Các trận: Núi Thành, Vạn Tường, Ia Đrăng, Plâyme, Đất Cuốc, Bàu Bàng là những cuộc đọ sức đầu tiên có ý nghĩa quan trọng: làm bộc lộ những điểm yếu cụ thể của quân Mỹ. Miền Bắc bắn rơi máy bay hiện đại Mỹ, bắt sống phi công Mỹ. Những trận đầu đánh thắng ở cả hai miền Nam - Bắc không những cổ vũ khí thế đánh Mỹ mà còn chứng tỏ khả năng quân và dân ta có thể đánh thắng lục quân và không quân Mỹ. Những cuộc đấu tranh của phụ nữ Củ Chi, Trảng Bàng tràn ra cánh đồng cản xe bọc thép Mỹ không cho chúng phá lúa, ngăn chặn không cho lính Mỹ đốt nhà dân chứng tỏ khả năng đấu tranh chính trị mặt giáp mặt giữa nhân dân Việt Nam với quân viễn chinh Mỹ.
Mỹ tính toán chỉ cần mấy chục vạn quân, mở mấy cuộc phản công chiến lược trong ba mùa khô, "tìm diệt", đánh gãy xương sống quân chủ lực Việt cộng, bắt sống hoặc tiêu diệt Trung ương Cục và Bộ Chỉ huy Quân giải phóng miền Nam, giáng cho miền Bắc mấy chiến dịch ném bom quy mô lớn, cắt đứt đường Hồ Chí Minh là Việt Nam phải chịu thua, Mỹ toàn thắng, rút quân về nước, áp đặt lại chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam.
Nhưng trải qua hai cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965-1966 và 1966-1967 với những cuộc hành quân lớn như Xêđaphôn, Áttơn borơ, Gianxơn Xity, Mỹ không diệt được chủ lực Quân giải phóng, không chụp bắt được cơ quan đầu não kháng chiến miền Nam, trái lại Mỹ bị tổn thất nặng nề chưa từng có. Đến mùa khô thứ ba, Mỹ chưa kịp ra tay thì trận Khe Sanh và cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968 là đòn sét đánh làm lung lay nghiêm trọng ý chí xâm lược của Mỹ. Tướng Mỹ Oétmolen bị cách chức, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mắc Namara từ chức, Tổng thống Mỹ Giônxơn phải tuyên bố đơn phương ngừng ném bom miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra, nhận đàm phán với ta tại Hội nghị Pari và không ra tranh cử Tổng thống nhiệm kỳ 2 nữa.
Đòn bất ngờ và đồng loạt, mạnh và hiểm, đầy hiệu lực Tết Mậu Thân là một sáng tạo độc đáo chưa từng có, tạo ra bước ngoặt cơ bản làm thay đổi cục diện chiến tranh, mở ra quá trình xuống thang chiến tranh của đế quốc Mỹ. Ta đã quyết đánh, biết đánh và thắng Mỹ ngay khi quân Mỹ còn đông nhất, mạnh nhất, có những cố gắng chiến tranh cao nhất. Chiến lược "Chiến tranh cục bộ" bị phá sản, Mỹ phải chuyển sang "phi Mỹ hoá", "Việt Nam hoá chiến tranh".
Quá trình "xuống thang chiến tranh" của Mỹ còn là một cuộc đọ sức dai dẳng quyết liệt. Mỹ xuống thang nhưng ngoan cố kéo dài và mở rộng chiến tranh ra toàn cõi Đông Dương. Nhân dân ta sát cánh cùng với nhân dân hai nước Lào và Campuchia anh em đánh bại âm mưu, thủ đoạn mới của Mỹ.
Ngày 1-1-1969, trong thơ chúc mừng năm mới, Bác Hồ có câu: Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào. Không ai ngờ rằng đó là lời thơ chúc Tết cuối cùng của Người. Nhà chiến lược thiên tài, người thầy của cách mạng Việt Nam đã thiết kế một quá trình hai bước để tiến tới thắng lợi cuối cùng: "Bắc - Nam sum họp, Xuân nào vui hơn". Quân và dân ta đã thực hiện trọn vẹn lời dặn của Bác. Sau khi cùng với quân và dân Lào đánh bại cuộc hành quân Lam Sơn 719 ở Đường 9 - Nam Lào, tiếp đến cuộc tiến công chiến lược năm 1972 trên toàn miền Nam và trận Điện Biên Phủ trên không trên miền Bắc, ta đã giành được thắng lợi quyết định. Mỹ buộc phải ký Hiệp định Pari cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, rút hết quân Mỹ về nước trong khi quân chủ lực của ta vẫn ở nguyên tại chỗ và được tăng cường, tạo nên một bước ngoặt về so sánh lực lượng có lợi cho ta kể từ 18 năm kháng chiến chống Mỹ. Trước tình hình ấy, tháng 7-1973, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta đã họp Hội nghị lần thứ 21 và ra Nghị quyết về thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và nhiệm vụ của cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới.
Trận quyết chiến chiến lược mùa Xuân 1975 đánh dấu bước phát triển mới hết sức rực rỡ của nghệ thuật chiến tranh nhân dân trong điều kiện hiện đại, đặc biệt là nghệ thuật điều hành chiến tranh ở giai đoạn kết thúc, nghệ thuật tổ chức và chỉ đạo thực hành những trận then chốt quyết định, đưa kháng chiến đến toàn thắng.
Các trận Thượng Đức, Phước Long có giá trị như những đòn trinh sát chiến lược làm bộc lộ sự yếu kém của quân đội nguỵ và sự hạn chế của khả năng Mỹ quay trở lại can thiệp.
Sau khi hoàn thành chuẩn bị về chiến lược cả về thế và lực ở cả hai miền Nam, Bắc, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 mở đầu bằng trận điểm huyệt Buôn Ma Thuột giải phóng Tây Nguyên là một thành công xuất sắc của việc chọn đúng điểm đột phá, nghi binh, dùng mưu lừa địch, dùng kế điều địch, đánh giỏi, thắng lớn tạo ra sự đột biến trong cục diện chiến tranh.
Nhạy bén nắm bắt thời cơ, chủ động tạo thời cơ, thúc đẩy thời cơ, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương đã liên tục bổ sung quyết tâm chiến lược, bắt kịp sự thay đổi cực nhanh của chiến trường, tạo yếu tố bất ngờ, thay đổi quyết sách từ kế hoạch cơ bản giải phóng miền Nam trong vòng hai đến ba năm lúc đầu chuyển sang kế hoạch thời cơ rút xuống một năm.
Chiến dịch giải phóng Huế - Đà Nẵng là sự phát triển tiến công và nổi dậy kịp thời, táo bạo, đầy sáng tạo, có hiệu quả lớn, tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ lực lượng quân nguỵ ở các tỉnh đồng bằng ven biển không cho địch co cụm về Sài Gòn, giải phóng miền Trung và quần đảo Trường Sa, tạo ra thế mới, lực mới. Bộ thống soái tối cao đã nắm bắt thời cơ, hạ quyết tâm cuối cùng giải phóng miền Nam trước mùa mưa 1975.
"Thần tốc, thần tốc hơn nữa. Táo bạo, táo bạo hơn nữa. Tranh thủ từng giờ, từng phút, xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng", Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã được tiến hành với tinh thần quyết chiến và toàn thắng, giải phóng thành phố Sài Gòn hầu như nguyên vẹn.
Chỉ trong vòng 55 ngày đêm (một sự trùng hợp lạ kỳ với 55 ngày đêm Điện Biên Phủ), với sức mạnh áp đảo cả về quân sự và chính trị, bằng ba đòn chiến lược then chốt và cuộc tấn công và nổi dậy ở đồng bằng sông Cửu Long, hơn một triệu quân ngụy bị diệt và tan rã, ngụy quyền sụp đổ, chế độ thực dân kiểu mới mà đế quốc Mỹ đã dày công xây dựng qua năm đời tổng thống bị đập tan.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ là kết quả của sự hy sinh, nỗ lực to lớn của toàn dân tộc trong cuộc đấu trí, đấu lực quyết liệt, lâu dài giữa ta và địch, đặc biệt là của đồng bào miền Nam - "Thành đồng Tổ quốc", của sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, chỉ huy ở tầm vĩ mô kết hợp với hoạt động chiến đấu và đấu tranh cụ thể của từng cán bộ, chiến sĩ ở từng chiến trường, từng đơn vị, không phải chỉ riêng một chiến trường nào, một bộ phận nào, trong đó Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương, Bộ Tổng tư lệnh và tiền phương của Bộ, Trung ương Cục miền Nam và Bộ Chỉ huy Quân giải phóng, các cơ quan chiến lược, các khu uỷ và bộ tư lệnh các chiến trường, bộ tư lệnh các chiến dịch và Bộ Tư lệnh đường Hồ Chí Minh có vai trò đặc biệt quan trọng. Mùa Xuân 1975, Bộ thống soái tối cao đã tỏ rõ tài năng mưu lược, hiểu địch, hiểu mình, điều hành toàn diện cuộc chiến tranh trên phạm vi cả nước, khẩn trương, linh hoạt, thận trọng, chắc thắng, giành toàn thắng trong tình hình quốc tế vô cùng phức tạp giữa những năm 70. Các chiến dịch đều diễn ra theo một kế hoạch thống nhất của Bộ Tổng tư lệnh, có sự phối hợp với nhau cả về kế hoạch và tình huống chiến dịch, tạo tiền đề cho nhau và cùng tạo ra điều kiện hình thành đòn quyết định chiến lược cuối cùng.
*
* *
Ngày toàn thắng 30-4-1975 đi vào lịch sử như một sự kết thúc chiến lược vô song. Trải qua cuộc trường chinh 30 năm với ba mốc son chói lọi: Tổng khởi nghĩa Tháng Tám, Điện Biên Phủ và mùa Xuân 1975 toàn thắng, dân tộc ta đã hoàn thành vẻ vang sự nghiệp cứu nước. Ách thống trị của chủ nghĩa thực dân cũ và mới kéo dài hơn một thế kỷ trên đất nước ta đã vĩnh viễn chấm dứt. Tổ quốc ta hoàn toàn độc lập, thống nhất. Cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trên phạm vi thế giới, đây là lần đầu tiên trong lịch sử đấu tranh của các dân tộc nhược tiểu, một dân tộc vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, kinh tế kém phát triển đã vùng lên tự giải phóng và liên tiếp đánh thắng những cường quốc đế quốc chủ nghĩa, chủ yếu bằng sức của chính mình, nêu một tấm gương anh dũng, bất khuất, trí tuệ, tài năng trong phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Cụm từ Việt Nam - Hồ Chí Minh đi vào ngôn ngữ của các dân tộc, đồng nghĩa với lương tri và phẩm giá con người, với chân lý "Không có gì quý hơn độc lập, tự do".
Thắng lợi của nhân dân Việt Nam có tầm quốc tế lớn, đó cũng là thắng lợi của nhân loại tiến bộ yêu chuộng hoà bình và công lý trên thế giới.
Thắng lợi của nhân dân Việt Nam có tính thời đại sâu sắc. Thắng lợi ấy khẳng định một chân lý: "Bất kỳ một quốc gia nào, dù có hùng mạnh đến đâu, nếu dùng bạo lực để áp đặt ý chí của mình lên dân tộc khác thì cuối cùng nhất định thất bại". Chiến thắng Điện Biên Phủ, mùa Xuân toàn thắng 1975, đó là những điểm hẹn mà lịch sử dành cho những cuộc chiến tranh xâm lược trong thời đại ngày nay.
Một câu hỏi lớn lâu nay không ít người đã đặt ra: "Vì đâu nhân dân Việt Nam, từ không một tấc sắt trong tay, vùng lên bẻ gãy gông xiềng nô lệ, lại đánh thắng "hai đế quốc to" trong một cuộc chiến tranh không cân sức, giành lại non sông đất nước, tiến lên giải phóng xã hội, giải phóng con người?”.
Sẽ không tìm được câu trả lời cho câu hỏi này nếu không nhìn sâu vào chiều dày lịch sử hàng nghìn năm, vào nền văn hoá dân tộc, vào truyền thống và di sản quân sự của tổ tiên, vào đường lối cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Thật vậy, một sự kiện hiếm thấy trong lịch sử thế giới là các bộ tộc người Việt cổ sinh sống trên mảnh đất này đã sớm có một triết lý sống, hình thành và phát triển một nền văn hoá dân tộc mà hạt nhân là chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đấu tranh bất khuất để làm chủ thiên nhiên, làm chủ xã hội, cố kết với nhau, tương thân tương ái, vừa dũng cảm vừa thông minh. Chính nhờ sức mạnh khôn lường của nền văn hoá ấy mà dưới ách đô hộ hơn một nghìn năm của phong kiến phương Bắc, dân tộc ta không hề bị đồng hoá và cuối cùng đã vùng lên giành lại nền độc lập. Cho đến khi vị tổ Trung hưng đầu tiên là Anh hùng dân tộc Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, thì kỷ nguyên một nghìn năm độc lập tự chủ đã được mở ra, chỉ gián đoạn bằng 20 năm đô hộ của quân Minh. Suốt trong một nghìn năm ấy, dân tộc ta dưới triều đại của các vị yêu nước đã đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược lớn mạnh hơn nhiều lần, từ Tống, Nguyên đến Minh, Thanh. Đặc biệt trong thế kỷ XIII, dân tộc ta đã đánh thắng quân Mông - Nguyên là đội quân xâm lược mạnh nhất thời bấy giờ đã từng chinh phục nhiều dân tộc từ Á sang Âu, đã chiếm lĩnh cả nước Trung Hoa, vậy mà ba lần xâm lược Đại Việt là ba lần thất bại. "Nam quốc sơn hà Nam đế cư". Hễ kẻ thù đụng đến nước ta thì "vua tôi đồng lòng, anh em hoà mục, cả nước chung sức", giữ vững quê hương, bảo vệ xã tắc. Từ Hịch tướng sĩ và Di chúc Canh Tý đến Bình Ngô đại cáo, một học thuyết quân sự Việt Nam đã hình thành và phát triển: "lấy đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo", "trăm họ là binh", "lấy đoản binh chống trường trận", "lấy ít địch nhiều", "lấy nhỏ thắng lớn". Học thuyết ấy đã biết vận dụng phép biện chứng đổi yếu thành mạnh, kết hợp lực, thế, thời, mưu, cuối cùng đạt tới nguyện vọng sâu xa là giành lại và giữ vững chủ quyền dân tộc với những tư tưởng vượt thời đại: "tập họp bốn phương manh lệ", "dập tắt muôn đời chiến tranh", "đem lại thái bình muôn thuở".
Đến đây, một câu hỏi mới lại được đặt ra: Vậy thì vì sao một dân tộc anh hùng như dân tộc Việt Nam lại phải sống kiếp ngựa trâu hơn 100 năm dưới ách thống trị của thực dân đế quốc phương Tây?
Suy cho cùng, nguyên nhân chủ yếu là sự khủng hoảng về đường lối vào thời điểm mà tương quan lực lượng giữa ta và địch đã có những thay đổi cơ bản: nước ta đang ở phương thức sản xuất phong kiến, kinh tế nông nghiệp lạc hậu, quân đội trang bị thô sơ, còn kẻ thù là một nước đã đi vào phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa với nền công nghiệp hiện đại và quân đội được trang bị hiện đại. Trước thực tiễn mới của cuộc đấu tranh, những người yêu nước Việt Nam hồi bấy giờ chưa tìm được kế sách cứu nước. Các phong trào yêu nước từ Nguyễn Trung Trực đến Hoàng Hoa Thám, từ Cần Vương đến Đông Kinh nghĩa thục, từ Đông Du đến Duy Tân đều bế tắc, không tìm ra lối thoát. Chính vì thế mà tinh thần anh dũng có thừa, nhưng các phong trào khởi nghĩa và nổi dậy từ Nam chí Bắc đều bị đàn áp dã man. Các lãnh tụ yêu nước chỉ "thành nhân" mà sự nghiệp cứu nước chưa "thành công" được.
Cho đến năm 1911, người thanh niên Nguyễn Tất Thành quyết chí đi tìm đường cứu nước. Mang trong mình hành trang tư tưởng truyền thống yêu nước và tinh thần đấu tranh bất khuất của dân tộc Việt Nam cùng với tinh hoa văn hoá phương Đông, Người đi khắp bốn biển năm châu với chí lớn giải phóng những "người cùng khổ". Năm 1920, Nguyễn Ái Quốc - nhà yêu nước vĩ đại - đã đến với chủ nghĩa Lênin và Quốc tế III, tìm ra con đường cứu nước: con đường cách mạng vô sản, và trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên. Từ chủ nghĩa Mác - Lênin, Nguyễn Ái Quốc tiếp thu thế giới quan và nhân sinh quan cách mạng, tiếp thu và phát triển phương pháp luận Mác - Lênin, phương pháp duy vật lịch sử và duy vật biện chứng, Người thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, đề ra Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt để lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Với mục tiêu cách mạng mới, cuộc đấu tranh yêu nước không những mang lại độc lập, thống nhất cho Tổ quốc mà còn mang lại tự do và hạnh phúc cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho toàn dân. Từ đây, dân tộc gắn liền với giai cấp, quốc gia gắn liền với quốc tế, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Do mục tiêu chính trị của cách mạng đã có sự thay đổi về chất so với trước, nên mục đích chính trị của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc trong thời đại Hồ Chí Minh cũng có sự phát triển mới về chất so với các thời kỳ lịch sử trước. Cứu nước gắn liền với cứu dân. Giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng nhân dân lao động, đem lại ấm no, tự do, hạnh phúc cho toàn dân. Người dân chiến đấu vì lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc, đồng thời cũng vì lợi ích của chính mình. Chính vì vậy mà cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 và hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ là những cuộc khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng chính nghĩa thực sự vì dân và toàn dân tiến hành.
Tư tưởng cơ bản của học thuyết quân sự Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh là trên cơ sở phát huy tinh thần “Quyết chiến quyết thắng”, “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, tiến hành kháng chiến toàn dân, toàn dân đánh giặc, cả nước đánh giặc. Trong Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, Bác Hồ viết: Cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến toàn dân, phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân. Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp, Người nói: "Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc". Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, Người lại khẳng định: "Cuộc kháng chiến của ta là toàn dân, thực sự là một cuộc chiến tranh nhân dân. 31 triệu đồng bào ở cả hai miền Nam Bắc, bất kỳ già trẻ gái trai phải là 31 triệu chiến sĩ anh dũng diệt Mỹ, cứu nước". Người nêu cao chính sách đại đoàn kết dân tộc, "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; thành công, thành công, đại thành công".
Đi đôi với tư tưởng "toàn dân đánh giặc", học thuyết quân sự Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển lên một đỉnh cao mới nghệ thuật đánh giặc truyền thống của dân tộc lấy nhỏ đánh lớn, lấy yếu đánh mạnh, giải quyết thành công trong điều kiện của thời đại mới một vấn đề hầu như một nghịch lý là "nước nhỏ đã đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ". Bác Hồ nói:
Nay tuy châu chấu đá voi,
Nhưng mai voi sẽ bị lòi ruột ra.
Bài toán "châu chấu đấu voi" chống kẻ xâm lược có nền công nghiệp khoa học - kỹ thuật phát triển, có trang bị rất hiện đại, có tiềm lực quân sự kinh tế rất mạnh như đế quốc Mỹ đặt ra cho dân tộc ta phải sáng tạo ra hàng loạt cách đánh hết sức thông minh, đem ý chí quyết chiến quyết thắng và trí tuệ sáng tạo của ta mà chiến thắng mọi chiến lược, chiến thuật, kỹ thuật hiện đại của quân xâm lược.
Học thuyết quân sự Việt Nam luôn nắm vững mục tiêu cách mạng, chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, xuất phát từ thực tiễn, phân tích tình hình thực tiễn, tìm ra quy luật và hành động theo quy luật, đánh thắng mọi kẻ địch hung bạo. Học thuyết ấy luôn theo dõi diễn biến mau lẹ và so sánh lực lượng giữa địch và ta trên chiến trường, tìm ra và tạo thời cơ có lợi nhất cho ta, tạo thế mạnh của ta, khoét sâu thế yếu của địch, tập trung lực lượng tiêu diệt địch. Khi tình hình thay đổi thì kịp thời thay đổi quyết sách về chiến lược, chiến thuật, tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt, bí mật, bất ngờ, giành được thắng lợi lớn, thường là trong những điều kiện khó khăn nhất.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, học thuyết quân sự Việt Nam đã phát triển lên một đỉnh cao mới đưa đến nhiều thắng lợi to lớn. Tuy nhiên, đã có lúc, do không nắm vững đường lối quân sự của Đảng và tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, không đi sát thực tiễn và không làm theo quy luật, chủ quan, duy ý chí, nên đã hạn chế không ít thắng lợi và chịu nhiều tổn thất.
Đã có một thời gian, mối quan hệ giữa chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy là đề tài tranh luận kéo dài trong cán bộ quân sự ở chiến trường. Một số đồng chí nhận thức không đúng, chỉ chú trọng đẩy mạnh đấu tranh chính trị, chiến tranh du kích, chỉ chăm lo xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang địa phương và dân quân du kích, coi nhẹ xây dựng bộ đội chủ lực. Một số nhà chiến lược nước ngoài nghiên cứu về Việt Nam cũng thường cho rằng chiến tranh nhân dân đồng nghĩa với chiến tranh du kích. Đó là những nhận thức hoàn toàn sai. Đảng ta không bao giờ có một chiến lược quân sự thuần tuý, và cũng chưa bao giờ hạn chế chiến tranh ở mức độ chiến tranh du kích. Chiến lược chiến tranh cách mạng của Đảng là một chiến lược tổng hợp, kết hợp đấu tranh quân sự, chính trị, ngoại giao, kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy, kết hợp đánh nhỏ, đánh vừa, đánh lớn, đánh địch bằng mọi cách, bằng mọi thứ vũ khí có trong tay. Trong khi đẩy mạnh đấu tranh chính trị, phát triển chiến tranh du kích, Đảng ta luôn coi trọng xây dựng bộ đội chủ lực thành những binh đoàn mạnh từ tiểu đoàn, trung đoàn, sư đoàn đến quân đoàn, trở thành những "quả đấm thép" đủ sức giáng cho địch những đòn tiêu diệt lớn, quyết định chiến trường.
Lại như do không nắm vững quy luật của khởi nghĩa và chiến tranh nên đã có chủ trương kết hợp với tổng công kích, tiến hành tổng khởi nghĩa trong chiến tranh ngay khi trên chiến trường còn hơn nửa triệu quân Mỹ và hơn một triệu quân nguỵ và quân các nước phụ thuộc. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968 bất ngờ, đồng loạt đánh vào các đô thị và hầu hết các căn cứ hậu cần lớn của địch giành thắng lợi vang dội, đánh bại chiến lược "Chiến tranh cục bộ", buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh. Lẽ ra phải chuyển hướng hoạt động về nông thôn, nhưng chúng ta lại chủ trương tiếp tục tiến công vào các đô thị nhằm dấy lên tổng khởi nghĩa, cuối cùng tổng khởi nghĩa vẫn không diễn ra, cách mạng phải chịu nhiều tổn thất.
Một ví dụ khác do làm sai quy luật nên phải trả giá bằng xương máu. Cách mạng là tiến công. Tư tưởng chiến lược của chiến tranh cách mạng bao giờ cũng là tư tưởng tiến công. Còn hình thức tác chiến thì có tác chiến tiến công, tác chiến phòng ngự kể cả về chiến lược, chiến dịch và chiến đấu. Tuy nhiên, do nhận thức không đúng nên trong một thời gian dài, một số cán bộ cho rằng trong chiến tranh cách mạng chỉ có tiến công, phủ nhận phòng ngự, thậm chí coi phòng ngự là điều cấm kỵ. Vì vậy, trong một số trận đánh, bộ đội bị thương vong.
Trong những năm gần đây, Mỹ và một số cường quốc phát triển vũ khí và trang bị hiện đại. Cuộc chạy đua vũ trang vẫn tiếp tục. Đi đôi với sự xuất hiện của một chiến lược mới, đặt "nhân quyền" lên trên "chủ quyền", một số thế lực hiếu chiến tự cho phép xâm lược một quốc gia độc lập và có chủ quyền, bất chấp luật pháp quốc tế. Sau chiến tranh vùng Vịnh là cuộc chiến tranh xâm lược Kôxôvô rồi lại diễn ra cuộc chiến tranh xâm lược Irắc và còn đe dọa gây ra những cuộc chiến tranh xâm lược mới. Một điều mới đặt ra: Trong điều kiện chiến tranh xâm lược với vũ khí công nghệ cao, thì học thuyết quân sự Việt Nam còn có giá trị hay không?
Chúng ta không bao giờ chủ quan khinh địch, luôn coi trọng đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học và kỹ thuật quân sự, phát triển học thuyết quân sự Việt Nam lên trình độ mới, đặc biệt trong tình hình một số cường quốc đang thực hiện một "cuộc cách mạng trong lĩnh vực quân sự". Và chúng ta có thể khẳng định ngay rằng: Học thuyết quân sự Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh hoàn toàn có khả năng giữ vững nền độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, đánh bại mọi cuộc chiến tranh xâm lược dù có hiện đại đến đâu và bất kể từ đâu tới.
Nền văn hoá Việt Nam, đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng, học thuyết quân sự Việt Nam độc đáo, sáng tạo, không ngừng phát triển là sức mạnh của Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.
Từ khi nước nhà giành được độc lập và thống nhất hoàn toàn, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, toàn dân ta từNamđến Bắc luôn nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
Trong công cuộc xây dựng kinh tế và phát triển văn hoá nay đã trở thành nhiệm vụ trung tâm, sau một thời gian mắc sai lầm chủ quan, rập khuôn và duy ý chí, Đảng ta đã sớm trở lại với tư tưởng Hồ Chí Minh, xuất phát từ thực tiễn, tìm ra quy luật, đề ra đường lối đổi mới đúng đắn và sáng tạo. Đường lối ấy đã cổ vũ mạnh mẽ toàn dân ta giành được những thắng lợi cực kỳ to lớn trên các mặt trận kinh tế, văn hoá và đối ngoại. Đảng ta đã đi đến một kết luận lịch sử: Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam hành động. Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng và tiếp tục đi lên trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá với nền kinh tế nhiều thành phần và cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, dù thắng lợi của đường lối đổi mới to lớn như thế nào, chúng ta cũng dũng cảm nhìn vào sự thật, không chút phạm sai lầm "kiêu ngạo cộng sản". Phải nói rằng hiện nay nước ta đang còn là một trong những nước nghèo trên thế giới, cơ cấu kinh tế phần lớn còn là nông nghiệp, năng suất lao động thấp kém hàng trăm lần, trình độ công nghệ lạc hậu hàng thế kỷ so với các nước phát triển. Như vậy, để thực hiện mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội, mâu thuẫn chủ yếu nhất trong hình thái kinh tế - xã hội nước ta chính là mâu thuẫn giữa yêu cầu rất cao của trình độ phát triển lực lượng sản xuất, giữa yêu cầu cải thiện không ngừng đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân với tình trạng nghèo nàn và lạc hậu hiện đang được khắc phục từng bước; đó là chưa nói đến nạn tham nhũng, sự suy thoái về đạo đức và sự nảy sinh những tệ nạn xã hội mà mặt trái của cơ chế thị trường mang lại.
Trong lúc đó thì cục diện thế giới đang có những biến đổi to lớn. Một số nước phát triển đang đi vào một thời đại kinh tế - xã hội mới - thời đại kinh tế tri thức của nền văn minh trí tuệ. Ở đó, dịch vụ và trí tuệ đã trở nên lực lượng sản xuất hàng đầu. Trên cơ sở ấy, một trật tự thế giới mới đã xuất hiện với xu thế toàn cầu hoá, lôi cuốn cả hành tinh vào một cơn lốc lớn do một số siêu cường và tập đoàn siêu quốc gia chi phối. Đi đôi với nguyện vọng hoà bình của loài người tiến bộ, thì các thế lực hiếu chiến, bá quyền và các tổ chức tình báo của họ vẫn tiếp tục gây ra các cuộc chiến tranh cục bộ, khủng bố, xung đột sắc tộc, tôn giáo, "diễn biến hoà bình", hoạt động bạo loạn lật đổ, ly khai, chạy đua vũ trang chưa từng có về vũ khí công nghệ cao. Môi trường an ninh thế giới biến đổi khôn lường.
Rõ ràng, bước vào thế kỷ XXI và thiên niên kỷ thứ ba, Đảng ta và toàn dân ta đang đứng trước những thời cơ mới, đồng thời phải đối mặt với những thách thức mới chưa từng có. Cũng như trước đây trong những bước ngoặt lớn của đấu tranh giải phóng dân tộc, Đảng ta đã xuất phát từ thực tiễn và đề ra những quyết sách phù hợp với quy luật vận động của chiến tranh cách mạng, thì ngày nay Đảng ta cũng đề ra những quyết sách đột phá mới để đưa đất nước tiến lên.
Đó là quyết sách coi xây dựng kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, bởi vì như Mác - Ăngghen đã khẳng định: sự phát triển phổ biến của các lực lượng sản xuất hiện đại là tiền đề của mọi tiền đề của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản; quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Đó là quyết sách coi giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách số một, bởi vì khoa học và trí tuệ đã trở thành lực lượng sản xuất hàng đầu, công nghệ tiên tiến là nội dung và động lực của công cuộc hiện đại hoá.
Đó là phát huy đến đỉnh cao nội lực của đất nước, chủ yếu là con người và nền văn hoá Việt Nam, trên cơ sở đó mà chủ động hội nhập vào khu vực và thế giới, tranh thủ các nguồn vốn, công nghệ và tri thức quản lý của nước ngoài để phục vụ cho sự nghiệp phát triển đất nước.
Đó là chủ trương tiếp tục xây dựng và chỉnh đốn Đảng, coi đó là nhiệm vụ then chốt, làm cho Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh, thực sự dân chủ, kỷ cương, đoàn kết, nâng cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, bè phái, diệt trừ nạn tham nhũng và các tệ nạn xã hội; luôn tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận tiên phong để xứng đáng là lương tâm, danh dự và trí tuệ của giai cấp công nhân và của dân tộc, trên cơ sở đó mà chỉnh đốn Nhà nước của dân, do dân, vì dân, tăng cường và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất.
Đó là luôn luôn nêu cao tinh thần cảnh giác, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải, bảo vệ môi trường sinh thái; coi trọng việc xây dựng sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ ở mức cao nhất của các phong trào hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ trên thế giới.
Toàn dân ta đoàn kết một lòng, khắc phục mọi tư tưởng chủ quan, bảo thủ, giáo điều máy móc, thực hiện bằng được các quyết sách mà Đảng đề ra, tiến tới Đại hội X của Đảng với những chuyển biến mới, thắng lợi mới.
Kỷ niệm ngày toàn thắng 30-4, chúng ta càng nhớ Bác Hồ vô vàn kính yêu, vị lãnh tụ thiên tài của Đảng ta, dân tộc ta, người Cha thân yêu của các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, nhớ các đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh, Lê Duẩn, các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước, các tướng lĩnh, các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy các mặt trận, các chiến trường, những người có nhiều công lao trong chiến thắng vĩ đại của dân tộc mà ngày nay không còn nữa.
Chúng ta hết sức xúc động nhớ tới biết bao cán bộ, chiến sĩ và đồng bào ta đã anh dũng hy sinh vì sự nghiệp cách mạng vẻ vang để Tổ quốc ta, nhân dân ta có được ngày nay.
Nhân dịp này, tôi thân ái gửi đến các Bà mẹ Việt Nam anh hùng, các gia đình liệt sĩ, gia đình có công với nước cùng toàn thể đồng bào trong cả nước lời thăm hỏi ân cần và lòng biết ơn sâu sắc nhất.
Tôi thân ái gửi tới các cán bộ chiến sĩ các lực lượng vũ trang, các đồng chí thương binh, bệnh binh, các nạn nhân chất độc da cam, các cựu chiến binh, thanh niên xung phong, dân công, giao liên, lời thăm hỏi ân cần và những tình cảm thân thiết nhất.
Tôi xin gửi tới nhân dân các nước anh em cùng nhiều bạn bè quốc tế lời cảm ơn chân thành về sự ủng hộ và giúp đỡ to lớn đối với nhân dân ta trong quá trình xây dựng và chiến đấu thắng lợi.
Tôi tin tưởng vững chắc rằng dưới ngọn cờ tất thắng của Đảng và của Bác Hồ vĩ đại, với hoài bão lớn, kiên định trong mọi tình huống, phát huy bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam trong thời đại mới, nhân dân ta đoàn kết, đại đoàn kết, sẽ biến những ước mơ trở thành hiện thực, tiến lên tiếp tục đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, giành những thắng lợi mới, phát triển với nhịp độ nhanh và bền vững, làm cho nước ta, một nước anh hùng nhưng còn nghèo nàn lạc hậu sớm khắc phục tình trạng tụt hậu, trở thành một nước anh hùng, giàu mạnh và văn minh, đuổi kịp và sánh vai các nước trung bình, rồi từng bước với các nước tiên tiến trên thế giới, như trước đây đã từ một nước thuộc địa trở thành một trong những nước đi tiên phong trong phong trào giải phóng dân tộc.
Đại tướng VÕ NGUYÊN GIÁP
Sách Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước - Những mốc son lịch sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009.
Bài viết liên quan | Xem tất cả
- Đồng chí Hoàng Văn Thụ với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc
- Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từ trần
- Đồng chí Nguyễn Văn Tố - Nhà lãnh đạo tài năng, học giả uyên bác của Việt Nam
- Đồng chí Hoàng Đình Giong, lãnh đạo tiền bối tiêu biểu của Đảng và cách mạng Việt Nam
- Đồng chí Đào Duy Tùng với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc
- Đồng chí Nguyễn Lương Bằng - Người chiến sĩ cộng sản mẫu mực, người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
- Xây dựng và phát triển nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, mang đậm bản sắc “Cây tre Việt Nam”
- Sách đồng hành cùng doanh nghiệp trong thời đại công nghệ số
- Đồng chí Lương Khánh Thiện - người chiến sĩ cộng sản kiên trung, trọn đời cống hiến cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc
- Kỷ niệm 116 năm Ngày sinh Tổng Bí thư Lê Duẩn (07/4/1907 - 07/4/2023): Nhà lãnh đạo kiệt xuất trọn đời vì nước, vì dân
- Đồng chí Chu Huy Mân - Người cộng sản kiên cường, nhà chính trị xuất sắc của Đảng và Quân đội nhân dân Việt Nam (17/3/1913 - 17/3/2023)
- Đồng chí Huỳnh Tấn Phát - Người cộng sản kiên trung mẫu mực