Đổi mới công tác cán bộ của Đảng Cộng sản Việt Nam trong điều kiện mới

Ngày đăng: 23/01/2015 - 08:01

doimoicongtaccanbo

Từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm đến công tác cán bộ. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác cán bộ được trình bày trong các văn kiện của Đảng có cơ sở lý luận từ chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Trải qua nhiều thời kỳ, giai đoạn khác nhau của lịch sử dân tộc, công tác cán bộ vẫn là một bộ phận không thể thiếu trong đường lối cách mạng Việt Nam và được kiểm nghiệm, đánh giá bởi thực tiễn ở Việt Nam.

Đảng Cộng sản Việt Nam đã kiên trì thực hiện nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đi đôi với phát huy trách nhiệm của tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị, giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ và quyết định tập thể về công tác cán bộ. Mọi nội dung, phương pháp lãnh đạo của Đảng trong công tác cán bộ được bảo đảm bằng tổ chức, quy chế nên đã góp phần đổi mới cách nghĩ, cách làm và khắc phục đáng kể những hạn chế, tồn tại trong công tác cán bộ. Đảng Cộng sản Việt Nam đã xây dựng được một hệ thống quy chế, quy trình công tác cán bộ. Đó là một bước tiến đáng kể trong công tác cán bộ. Tuy nhiên, việc đổi mới công tác cán bộ của Đảng là một giải pháp quan trọng mà cấp ủy và cán bộ lãnh đạo các cấp phải thường xuyên coi trọng nhằm bảo đảm thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị đã đề ra trong thời gian trước mắt cũng như lâu dài.

1. Nội dung công tác cán bộ của Đảng Cộng sản Việt Nam

Nội dung công tác cán bộ gồm các khâu cơ bản như sau:

- Đánh giá cán bộ.

 - Quy hoạch cán bộ.

 - Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.

- Điều động và luân chuyển cán bộ .

- Quản lý và sử dụng cán bộ .

- Chính sách cán bộ.

a) Đánh giá cán bộ

Công tác đánh giá cán bộ thường hướng tới một số mục đích chủ yếu sau:

- Phát hiện mặt mạnh và mặt yếu của cán bộ để có biện pháp khuyến khích, thúc đẩy mặt mạnh, khắc phục mặt yếu, hướng tới nâng cao hiệu quả công tác cán bộ.

- Xác định căn cứ để thực hiện đúng các công tác khác của công tác cán bộ như: đề bạt, bổ nhiệm, miễn nhiệm, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển,...

- Thông qua đánh giá cán bộ để các cấp lãnh đạo thấy được những chỗ còn thiếu sót trong chủ trương, đường lối, chính sách; trong công tác lãnh đạo, quản lý tổ chức, để từ đó có biện pháp điều chỉnh, hoàn thiện các công việc này ngày một tốt hơn.

- Đánh giá đúng cán bộ là một biện pháp hữu hiệu để khuyến khích cán bộ hăng hái phấn đấu vươn lên, tạo cơ hội cho cán bộ thi thố tài năng, từ đó kích thích lòng nhiệt tình, tích cực, sáng tạo đóng góp cho sự phát triển của tổ chức.

Việc đánh giá cần dựa trên những tiêu chí khách quan nhằm hạn chế được những đánh giá theo ý chí chủ quan, cảm tính, không phân biệt được người có thành tích nổi trội với người yếu kém, đánh đồng người làm tốt với người làm không tốt.

Tiêu chuẩn cán bộ là một cơ sở khoa học để đánh giá, quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng, bố trí, sử dụng cán bộ. Tiêu chuẩn cán bộ luôn thay đổi linh hoạt phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của cách mạng trong mỗi giai đoạn phát triển. Đảng Cộng sản Việt Nam nêu các tiêu chuẩn chung đối với cán bộ và các tiêu chuẩn riêng cho từng đối tượng.

Tiêu chuẩn chung cho cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước bao gồm:

- Có tinh thần yêu nước sâu sắc, tận tuỵ phục vụ nhân dân, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu thực hiện có kết quả đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.

- Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Không tham nhũng và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng. Có ý thức tổ chức kỷ luật, trung thực, không cơ hội, gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm.

- Có trình độ hiểu biết về lý luận chính trị, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; có trình độ văn hoá, chuyên môn, đủ năng lực và sức khoẻ để làm việc có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.

Các tiêu chuẩn có quan hệ mật thiết với nhau. Coi trọng cả đức và tài, đức là gốc.

Ngoài các tiêu chuẩn chung nói trên, cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đoàn thể nhân dân cần đáp ứng thêm các tiêu chuẩn sau:

- Có bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở lập trường giai cấp công nhân, tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách mạng, với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; có năng lực dự báo và định hướng sự phát triển, tổng kết thực tiễn, tham gia xây dựng đường lối, chính sách, pháp luật; thuyết phục và tổ chức nhân dân thực hiện; có ý thức và khả năng đấu tranh bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.

- Gương mẫu về đạo đức, lối sống; có tác phong dân chủ, khoa học, có khả năng tập hợp quần chúng, đoàn kết cán bộ.

- Có kiến thức về khoa học lãnh đạo quản lý. Cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước và đoàn thể cần học tập có hệ thống ở các trường của Đảng; trải qua hoạt động thực tiễn có hiệu quả.

- Ngoài các tiêu chuẩn chung, cán bộ lãnh đạo lực lượng vũ trang cần đáp ứng thêm các tiêu chuẩn sau:

- Tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng và nhân dân, sẵn sàng hy sinh bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.

- Có tinh thần cảnh giác cách mạng cao, có ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm, giữ gìn bí mật quân sự, bí mật quốc gia.

- Nắm vững và có khả năng vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng vào xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân. Nắm được những vấn đề cơ bản về quản lý kinh tế, xã hội.

- Ngoài các tiêu chuẩn chung, cán bộ khoa học, chuyên gia cần đáp ứng thêm các tiêu chuẩn sau:

- Có tư duy độc lập, sáng tạo; có ý thức hợp tác, say mê trong nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ.

- Bám sát đời sống xã hội, có khả năng tổng kết thực tiễn.

- Chuyên gia đầu ngành phải có khả năng tập hợp và sáng tạo.

- Ngoài các tiêu chuẩn chung, cán bộ quản lý kinh doanh cần đáp ứng thêm các tiêu chuẩn sau:

- Hiểu biết sâu sắc các quan điểm kinh tế của Đảng; có phẩm chất đạo đức, cần kiệm liêm chính, không lợi dụng chức quyền để tham ô, lãng phí, xa hoa.

- Có kiến thức về kinh tế thị trường và quản trị doanh nghiệp, hiểu biết khoa học, công nghệ, pháp luật và thông lệ quốc tế.

- Có khả năng tổ chức kinh doanh đạt hiệu quả kinh tế - xã hội.

Các ngành, các cấp căn cứ vào những tiêu chuẩn trên đây để xây dựng tiêu chuẩn cụ thể, sát hợpcho các loại cán bộ, công chức.

b) Quy hoạch cán bộ

Quy hoạch cán bộ là việc bố trí, sắp xếp đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các ngành, các cấp, các lĩnh vực của hệ thống chính trị theo một kế hoạch dài hạn  sao cho mỗi cán bộ được đào tạo phát huy năng lực, phẩm chất của mình, nhằm hoàn thành có hiệu quả những nhiệm vụ đảm nhận và chuẩn bị những điều kiện tốt cho thời kỳ, giai đoạn cách mạng tiếp theo.

Quy hoạch cán bộ là việc tạo nguồn cán bộ cho cả hiện tại và tương lai, cho nên quy hoạch cán bộ là công việc thường xuyên trong đời sống chính trị của Đảng cầm quyền. Quy hoạch để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, tạo cơ hội cho cán bộ có hướng rèn luyện, phấn đấu, không ngừng vươn lên đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước.

Mục đích của công tác quy hoạch cán bộ

Tạo sự chủ động, có tầm nhìn chiến lược trong công tác cán bộ; khắc phục tình trạng hẫng hụt trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, bảo đảm tính kế thừa, phát triển và sự chuyển tiếp liên tục, vững vàng giữa các thế hệ cán bộ, giữ vững đoàn kết nội bộ và sự ổn định chính trị.

Chuẩn bị từ xa và tạo nguồn cán bộ dồi dào làm căn cứ để đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ đảm nhận các chức danh lãnh đạo, quản lý các cấp trong hệ thống chính trị vững vàng về chính trị, trong sáng về đạo đức, thành thạo về chuyên môn, nghiệp vụ, có trình độ và năng lực, nhất là năng lực trí tuệ và thực tiễn tốt, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Phương châm chỉ đạo công tác quy hoạch

Quy hoạch cán bộ phải thực sự gắn kết với các khâu khác trong công tác cán bộ như: nhận xét, đánh giá cán bộ; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; luân chuyển, sắp xếp, bố trí, sử dụng cán bộ. Đánh giá đúng cán bộ là khâu quan trọng nhất, là tiền đề cho việc bố trí cán bộ và cho quy hoạch cán bộ; đồng thời quy hoạch cán bộ là cơ sở để thực hiện luân chuyển, đào tạo cán bộ cho nhu cầu trước mắt và lâu dài.

Thực hiện quy hoạch “động” và “mở”: “Mở” là quy hoạch không khép kín trong từng ngành, từng địa phương, từng đơn vị, không hạn chế một số ít người được định sẵn một cách chủ quan. Trong quy hoạch, mỗi chức danh lãnh đạo cần có ít nhất từ hai đến ba cán bộ dự bị. Mỗi cán bộ có thể dự kiến đảm nhiệm từ hai đến ba chức danh. “Động” là quy hoạch được rà soát thường xuyên, được điều chỉnh theo sát với yêu cầu thực tế của sự phát triển cán bộ, kịp thời bổ sung những nhân tố mới vào quy hoạch. Cần tạo ra “dòng chảy” trong công tác quy hoạch cán bộ. Hằng năm, phải rà soát lại đội ngũ cán bộ trong quy hoạch để có sự điều chỉnh, bổ sung.

Quy hoạch cán bộ phải đồng bộ từ trên xuống dưới; cấp trên chỉ đạo, hướng dẫn cấp dưới quy hoạch cán bộ, lấy quy hoạch cán bộ cấp dưới làm cơ sở cho quy hoạch cán bộ cấp trên; quy hoạch cấp trên thúc đẩy quy hoạch cấp dưới.

Quy hoạch cán bộ phải mang tính khoa học và thực tiễn, vừa tạo nguồn cho việc đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, vừa tạo động lực thúc đẩy, phát huy nhân tố chủ quan, phấn đấu vươn lên của cán bộ, bảo đảm sự đoàn kết trong phát triển của toàn đội ngũ cán bộ, đề phòng tư tưởng cơ hội, chạy theo quy hoạch; không cứng nhắc, máy móc trong xây dựng và thực hiện quy hoạch.

Thực hiện công khai công tác quy hoạch cán bộ; cơ quan có thẩm quyền quyết định quy hoạch thì quyết định phạm vi, đối tượng, thời điểm, mức độ và cách thức công khai quy hoạch.

c) Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ

Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là  trang bị và bổ sung tri thức, kỹ năng cũng như phẩm chất đạo đức cho cán bộ nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công việc.

Mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ

- Trang bị hệ thống thế giới quan, nhân sinh quan, phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, hệ thống tri thức chuyên môn, kiến thức lãnh đạo, quản lý và kỹ năng nghề nghiệp cho cán bộ lãnh đạo, quản lý và cán bộ quy hoạch vào các chức vụ lãnh đạo, quản lý các cấp nhằm đáp ứng tốt yêu cầu đổi mới của đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập sâu rộng vào cộng đồng quốc tế.

- Góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý đương chức và quy hoạch các cấp có phẩm chất đạo đức, thái độ, hành vi ứng xử và kỷ luật nghề nghiệp, tận tụy với công vụ và sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa.

Yêu cầu về nội dung đào tạo, bồi dưỡng cán bộ

Nội dung, chương trình đào tạo phải thiết thực với yêu cầu hoạt động thực tiễn xã hội, tức là, lý luận phải gắn với sự vận động thực tiễn khách quan, khả năng nâng cao năng lực, trí tuệ cho đội ngũ đảng viên, cán bộ lãnh đạo trong việc xử lý các vấn đề thực tiễn một cách khoa học, hạn chế tới mức có thể tình trạng kinh nghiệm, cảm tính. Nội dung bồi dưỡng bảo đảm cập nhật kiến thức mới và kỹ năng nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu, tiêu chuẩn chức danh đối với từng đối tượng ở từng vị trí công tác, phù hợp tình hình mới và yêu cầu cụ thể của từng lĩnh vực, địa phương, vùng, miền.

Nội dung, chương trình đào tạo cần phải bảo đảm sự cân đối nhằm cung cấp cho người học tri thức khoa học, kỹ năng xử lý tình huống chính trị thực tiễn. Nội dung chương trình sát với việc nhận thức và giải quyết vấn đề thực tiễn đang diễn ra trong xã hội, không nên quá kinh viện. Nội dung chương trình bồi dưỡng bảo đảm cân đối việc bổ sung kiến thức, nâng cao kỹ năng chuyên môn với giải đáp những vấn đề thực tiễn cụ thể mới đang diễn ra trong ngành, địa phương.

Quá trình đào tạo, bồi dưỡng đòi hỏi tính thường xuyên, liên tục bởi lẽ tri thức và các tình huống thực tiễn luôn vận động và thay đổi theo thời gian. Không thể rập khuôn nội dung đào tạo, bồi dưỡng sơ cứng và bất biến với sự vận động khách quan. Đảng viên, đặc biệt các cán bộ lãnh đạo, quản lý phải biết vận dụng linh hoạt phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều hành thực tiễn. Họ phải đủ năng lực làm giàu học thuyết Mác -Lênin bằng những lý luận mới, tri thức hiện đại của nhân loại.

Quá trình đào tạo lý luận chính trị - hành chính gắn với nguyên tắc học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”, “thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng”. Để đạt được những yêu cầu cơ bản này, công tác đào tạo, bồi dưỡng cần phải đổi mới trong từng khâu. Nội dung đào tạo, bồi dưỡng cần phải thiết kế phù hợp với yêu cầu thực tiễn, đủ khả năng giải quyết đúng các vấn đề đang hiện hữu trong thực tế một cách thuyết phục, phù hợp quy luật khách quan.

Kết luận 57-KL/TW nhấn mạnh: “Cần định hướng nội dung bảo đảm giữ vững các nguyên lý cơ bản và phương pháp luận biện chứng khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối và quan điểm của Đảng; phải bao gồm cả về nguyên lý cơ bản và kiến thức mới, cả lý luận chung và kinh nghiệm lãnh đạo, quản lý có tính chất kỹ năng, kỹ thuật; gắn với thực hiện việc nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn”.

 d) Điều động, luân chuyển cán bộ

Điều động, luân chuyển cán bộ nhằm đạt được một số mục tiêu chính sau đây:

- Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phát triển toàn diện, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

-  Rèn luyện, thử thách và khảo nghiệm cán bộ để làm căn cứ cho việc bố trí, sắp xếp và sử dụng cán bộ lãnh đạo, quản lý theo quy hoạch.

-  Tạo điều kiện cho cán bộ khi hết hai nhiệm kỳ làm lãnh đạo, quản lý được chuyển sang một công tác mới phù hợp với năng lực và sở trường của cán bộ.

-  Phá vỡ thế khép kín, cục bộ địa phương trong công tác cán bộ hiện nay.

đ) Quản lý, sử dụng cán bộ

Đảng Cộng sản Việt Nam quy định rõ các nguyên tắc quản lý cán bộ của Đảng như sau:

- Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đồng thời phát huy trách nhiệm của các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị.

Đảng đề ra đường lối, chủ trương, chính sách, tiêu chuẩn, quy chế, quy định về công tác cán bộ và thông qua các cấp uỷ, tổ chức Đảng, đảng viên trong các cơ quan nhà nước, mặt trận, đoàn thể, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp nhà nước để lãnh đạo các cấp, các ngành tổ chức thực hiện quyết định của Đảng về cán bộ và công tác cán bộ.

Đảng chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức của hệ thống chính trị trên mọi lĩnh vực. Đảng trực tiếp quản lý đội ngũ cán bộ, trước hết là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các ngành, các cấp; đồng thời phát huy trách nhiệm của các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị.

Đảng phân công, phân cấp quản lý cán bộ cho các cấp uỷ và tổ chức Đảng, đồng thời thường xuyên kiểm tra việc thực hiện công tác cán bộ của các ngành, các cấp.

- Bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể quyết định đi đôi với việc thực hiện đầy đủ trách nhiệm cá nhân trong công tác quản lý cán bộ.

Những vấn đề về đường lối, chủ trương, chính sách, đánh giá, bố trí, sử dụng, bổ nhiệm, luân chuyển, khen thưởng, kỷ luật cán bộ phải do tập thể cấp uỷ và tổ chức đảng có thẩm quyền thảo luận dân chủ và quyết định theo đa số. Trường hợp ý kiến người đứng đầu và của tập thể cấp uỷ, tổ chức Đảng, lãnh đạo cơ quan, đơn vị khác nhau thì phải báo cáo lên cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.

Người đứng đầu cấp uỷ, tổ chức Đảng, cơ quan, đơn vị có trách nhiệm đề xuất và tổ chức thực hiện các quyết định của tập thể về cán bộ và công tác cán bộ trong lĩnh vực được phân công phụ trách.

Cá nhân đề xuất, cơ quan thẩm định, tập thể quyết định về cán bộ phải chịu trách nhiệm về đề xuất, thẩm định, quyết định của mình.

Cán bộ, đảng viên phải chấp hành nghiêm túc các nghị quyết, quyết định của cấp uỷ cấp trên về cán bộ và công tác cán bộ.

e) Chính sách cán bộ

Mục tiêu chung của công tác chính sách cán bộ là thực hiện chế độ đãi ngộ phù hợp với vị trí, vai trò của cán bộ, công chức, giúp ích cho việc thu hút nhân tài, có tác dụng khích lệ, động viên tính tích cực, sáng tạo, tinh thần thi đua vươn lên đạt thành tích cao trong công tác của cán bộ.

Nhằm phát huy tính hiệu quả trong thực tiễn, công tác chính sách cán bộ cần bảo đảm một số yêu cầu sau:

- Chính sách cán bộ, công chức phải trở thành nguồn động lực để cán bộ phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong công tác

Chính sách cán bộ giữ một vị trí quan trọng trong công tác cán bộ hiện nay. Chính sách cán bộ phù hợp sẽ là nguồn động lực, là tác nhân thúc đẩy, động viên sự tích cực phấn đấu, chủ động sáng tạo trong công việc của cán bộ, thu hút được nhân tài. Nhưng ngược lại, nếu chính sách cán bộ không phù hợp sẽ làm cán bộ chán nản, không tích cực trong hoạt động và công tác, làm giảm ý chí phấn đấu của cán bộ, không thu hút được cán bộ giỏi vào tổ chức.

- Chính sách cán bộ phải thể hiện tính lịch sử cụ thể

Chính sách cán bộ không cố định mà luôn được đổi mới, điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu, điều kiện của đất nước trong từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Trong giai đoạn đổi mới, xây dựng nhà nước pháp quyền, chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi công tác chính sách cán bộ cũng phải thay đổi cho phù hợp, đáp ứng những yêu cầu, nhiệm vụ mới của đất nước.

- Chính sách cán bộ phải bảo đảm nguyên tắc công bằng, công khai

Tính công bằng trong chính sách cán bộ thể hiện mọi cán bộ trong diện chính sách đều được hưởng chế độ ưu đãi một cách công bằng, không có sự phân biệt, đối xử. Sự công bằng trong chính sách còn thể hiện ở chỗ, khi có một chủ trương mới về công tác cán bộ, đi kèm với nó là một hệ thống chính sách cán bộ cho phù hợp, nhằm góp phần phát huy hiệu quả chủ trương trong thực tiễn.

Công khai mọi chế độ chính sách cũng là một nguyên tắc nhằm tạo nên sự bình đẳng trong công tác cán bộ. Mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về chính sách cán bộ cần được công bố công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng, để mọi người dân đều được biết và thực hiện giám sát.

2. Đổi mới công tác cán bộ của Đảng Cộng sản Việt Nam trong điều kiện hiện nay

Hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đang tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI. Công tác cán bộ được tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ; thực hiện tốt Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; đổi mới tư duy, cách làm, khắc phục yếu kém trong từng khâu của công tác cán bộ. 

Đặc biệt quan trọng, toàn Đảng đang quyết liệt thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành trung ương khóa XI “một số vấn đề cấp bách trong xây dựng Đảng hiện nay”. Công tác xây dựng Đảng vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém, khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ.

Trong bối cảnh đó, Đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành đổi mới công tác cán bộ, cụ thể tập trung vào một số nội dung sau:

a) Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng về công tác cán bộ

Trong đó, tập trung thực hiện tốt một số nội dung sau:

Tiếp tục thể chế hóa nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ đi đôi với phát huy trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị về công tác cán bộ.

Cần khẩn trương nghiên cứu và ban hành quy định trách nhiệm và thẩm quyền của người đứng đầu trong công tác cán bộ. Việc xây dựng quy định này đòi hỏi vừa bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; vừa phát huy và đề cao vai trò trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác cán bộ.

Bổ sung, hoàn thiện hệ thống các quy định, quy chế về sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của các tổ chức thành viên khác trong hệ thống chính trị. Tiếp tục cải tiến quy trình công tác nhân sự của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội.

Mở rộng và phát huy dân chủ trong công tác cán bộ, bảo đảm khách quan, công tâm, công khai, minh bạch.

b) Hoàn thiện công tác đánh giá cán bộ

Phải xây dựng tiêu chuẩn chức danh cán bộ và tiêu chí đánh giá cụ thể đối với từng chức danh, từng đối tượng cán bộ, phù hợp với thời kỳ mới. Tiêu chí đánh giá phải đánh giá được đối tượng cần đánh giá (có đạt hay không đạt mục tiêu đề ra). Các tiêu chí cần cụ thể, có khả năng định lượng để đo lường được, có thể thực hiện được, sát với thực tiễn. Bộ tiêu chí gắn với mốc thời gian thực hiện.

Trong đánh giá cán bộ, các tiêu chí đánh giá thường phải căn cứ vào  tiêu chuẩn cán bộ đã được xác định đối với từng vị trí công tác trong tổ chức. Tiêu chuẩn cán bộ được hình thành dựa trên các tiêu chuẩn chung trong công tác cán bộ của Đảng, của đảng uỷ các cấp, chi bộ cơ sở và chủ yếu phải căn cứ vào công việc cụ thể được giao cho cán bộ. Nhìn chung, các tiêu chí đánh giá phải làm rõ ưu điểm, khuyết điểm, mặt mạnh, mặt yếu về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, năng lực và hiệu quả công tác, chiều hướng phát triển của cán bộ.

Đánh giá cán bộ cần bảo đảm tính công bằng, khách quan. Nguyên tắc này đòi hỏi: (i) phải công khai hoá nội dung, tiêu chuẩn và phương pháp tiến hành đánh giá; (ii) bộ phận có thẩm quyền đánh giá phải thể hiện được sự công bằng, khách quan;(iii) đánh giá phải dựa trên sự khảo sát, thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau, tổng hợp, khái quát thông tin để có được những đánh giá khách quan, chính xác và hạn chế được lối đánh giá chủ quan, cảm tính, phiến diện; (iv) cần luật hoá công tác đánh giá cán bộ nhằm tránh những hiện tượng không công bằng, không tuân thủ quy trình đánh giá, không hoàn thành chức trách, vì tư lợi làm rối kỷ cương trong đánh giá.

Đánh giá cán bộ trên quan điểm lịch sử  cụ thể. Thời điểm, hoàn cảnh lịch sử cụ thể có sự chi phối, ảnh hưởng tới công tác của từng cán bộ, vì thế trong đánh giá cán bộ phải căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể mà đề ra tiêu chí đánh giá phù hợp.

Đánh giá cán bộ cần bảo đảm tính toàn diện. Toàn diện trong đánh giá nghĩa là phải xem xét tới tất cả các mối liên hệ trực tiếp, gián tiếp; bên trong, bên ngoài; khách quan, chủ quan trong mọi mặt công tác của cán bộ. Các khâu trong công tác cán bộ đều có quan hệ ràng buộc lẫn nhau, vì thế, đánh giá cán bộ phải được nhìn nhận trong mối quan hệ tổng thể, toàn diện các mặt công tác, không chỉ phiến diện một mặt công tác nào.

Đánh giá cán bộ theo quan điểm phát triển. Đánh giá theo quá trình phấn đấu vươn lên, sự phát triển trong công tác của cán bộ và dự báo được khả năng, triển vọng, xu hướng phát triển của cán bộ. Con người là một thực thể tự nhiên - xã hội, nên luôn vận động và phát triển trong xã hội, trong mỗi tổ chức. Công tác đánh giá phải nhìn nhận được sự phát triển (tiến bộ, dừng lại hay tụt lùi) và triển vọng về trình độ, năng lực của cán bộ sau từng giai đoạn. Đặc biệt, công tác đánh giá phải góp phần phát hiện cán bộ trẻ tài năng và sớm đưa họ vào quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng để trở thành nguồn cán bộ lãnh đạo kế cận trong tương lai.

Phải lấy việc đánh giá hiệu quả công tác thực tế của cán bộ là một yêu cầu cơ bản trong công tác đánh giá cán bộ. Hiệu quả công tác thực tế là sự phản ánh khách quan, tổng hợp các năng lực, phẩm chất, thái độ và chất lượng công tác của cán bộ. Một tiêu chí quan trọng hàng đầu để đánh giá cán bộ là phải hoàn thành các công việc được tổ chức giao với hiệu quả cao. Một cán bộ không thể được đánh giá tốt khi chỉ hoàn thành công việc ở mức độ trung bình hay chỉ luôn giỏi nói chứ không giỏi làm. Hết sức tránh việc đánh giá cán bộ chỉ dựa trên chấp hành đúng các yêu cầu tối thiểu của tổ chức mà không xét tới tính hiệu quả của công việc, tức là không đánh giá những thành tích nổi trội, vượt lên của cán bộ trong công việc so với chuẩn mực, yêu cầu chung.

c) Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch cán bộ

Quy hoạch cán bộ phải xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ chính trị và thực tế đội ngũ cán bộ; phải bảo đảm sự liên thông của cả đội ngũ cán bộ. Phải đánh giá đúng cán bộ trước khi đưa vào quy hoạch;

Thực hiện công khai trong công tác quy hoạch (công khai về tiêu chuẩn, số lượng và danh sách quy hoạch đã được cấp trên phê duyệt).

Thực hiện Quy hoạch cán bộ cấp chiến lược nhiệm kỳ 2016 - 2020 và các nhiệm kỳ tiếp theo. Thực hiện bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp trên nói chung phải kinh qua chức vụ lãnh đạo, quản lý ở cấp dưới.

Quy hoạch cán bộ phải bảo đảm phương châm “động” và “mở”.

Số lượng cán bộ đưa vào quy hoạch phải bảo đảm 1,5 đến hai lần; mỗi chức danh quy hoạch hai – ba người; một người quy hoạnh hai – ba chức danh; không quy hoạch một người cho một chức danh.

Phải bảo đảm về độ tuổi và cơ cấu, đó là: Bảo đảm ba độ tuổi trong quy hoạch và dãn cách các độ tuổi là năm năm; bảo đảm tỷ lệ nữ trong quy hoạch không dưới 15%. Nếu không bảo đảm cơ cấu thì cấp trên không phê duyệt hoặc bổ sung cán bộ từ nơi khác vào quy hoạch.

d) Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện luân chuyển cán bộ

Kết hợp chặt chẽ, đồng bộ với các khâu của công tác cán bộ, trong đó có luân chuyển cán bộ. Việc luân chuyển cán bộ cần đặt trong tổng thể quy hoạch cán bộ lãnh đạo và quản lý của mỗi cấp, mỗi ngành, là một khâu quan trọng hợp thành quy hoạch cán bộ. Thực hiện luân chuyển đúng cán bộ, đúng vị trí là thiết thực góp phần thực hiện tốt công tác quy hoạch cán bộ.

Mặt khác, trên cơ sở quy hoạch cán bộ khoa học, hợp lý mà khâu đầu tiên là đánh giá khách quan, lựa chọn đúng cán bộ để tiến hành luân chuyển cán bộ có kết quả, đạt được mục tiêu đề ra.

Luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý phải gắn với việc đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và khả năng phát triển của cán bộ, gắn với yêu cầu phát hiện, bồi dưỡng nhân tài. Cần đánh giá đúng cán bộ để phát hiện mặt mạnh và mặt còn hạn chế của cán bộ để từ đó xây dựng kế hoạch luân chuyển cho phù hợp, giúp cán bộ thông qua hoạt động thực tiễn khắc phục được hạn chế, mau chóng trưởng thành. Chính vì thế, khi luân chuyển cán bộ, cần chú ý thực hiện đồng thời cả hai việc, một là phải đánh giá đúng về trình độ, năng lực, khả năng phát triển và phẩm chất đạo đức của cán bộ. Hai là, tìm nơi luân chuyển cho thích hợp nhằm tạo điều kiện để cán bộ phấn đấu khắc phục những yếu điểm.

Do đặc thù của hệ thống chính trị Việt Nam nên đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý bao gồm nhiều loại như: cán bộ của Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội; cán bộ quản lý trong doanh nghiệp nhà nước; đơn vị sự nghiệp; cán bộ lãnh đạo cấp trung ương, cấp địa phương và cấp cơ sở. Đối với mỗi loại cán bộ, do tính chất chuyên môn, nghề nghiệp cũng như lĩnh vực công tác khác nhau nên từ đó có nhu cầu khác nhau về đào tạo, bồi dưỡng, dẫn đến mục tiêu, yêu cầu luân chuyển cũng không giống nhau.

Đối với cán bộ trong quy hoạch cán bộ lãnh đạo chung của Đảng và Nhà nước ở cấp Trung ương, đòi hỏi phải được chuẩn bị về kiến thức và năng lực lãnh đạo toàn diện, thì việc luân chuyển công tác đối với họ có thể diễn ra ở phạm vi rộng, cả về địa lý lẫn phương diện chuyên môn, nghề nghiệp.

Đối với cán bộ trong quy hoạch cán bộ quản lý (ngành, lĩnh vực, doanh nghiệp) thì phạm vi luân chuyển, nói chung, nên trong ngành, lĩnh vực ấy, tức là bố trí để người cán bộ kinh qua nhiều loại công việc trong phạm vi phụ trách của họ. Cần chú trọng tính chất chuyên nghiệp của đội ngũ công chức hành chính nhà nước để xây dựng đội ngũ lãnh đạo, quản lý chuyên sâu của nền hành chính.

Cần luân chuyển những cán bộ khoa học, kỹ thuật, chuyên môn, nghiệp vụ có khả năng trở thành cán bộ lãnh đạo, quản lý xuống cơ sở, về địa phương để họ có điều kiện thâm nhập thực tế, từ đó đào tạo, bồi dưỡng chuẩn bị chuyển sang đảm nhận cương vị lãnh đạo và quản lý, nhưng tốt nhất là nên gắn với lĩnh vực chuyên môn hoặc có liên quan tới chuyên môn của ngành đó.

đ) Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ

Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ và nâng cao nhận thức của cấp uỷ và cán bộ, đảng viên về vị trí, vai trò, ý nghĩa của công tác đào tạo, bồi dưỡng; tăng cường công tác tư tưởng, nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của người học; xây dựng ý thức trách nhiệm của đội ngũ những người làm công tác tham mưu, quản lý đào tạo, giảng dạy; khắc phục tình trạng chạy theo bằng cấp, tuyệt đối hoá bằng cấp của cả người dạy, người học và của cơ quan làm công tác cán bộ và cơ quan sử dụng cán bộ.

Đổi mới toàn diện, đồng bộ về nội dung, phương pháp, với hình thức đào tạo, bồi dưỡng tập trung hơn để nâng cao chất lượng. Định hướng nội dung bảo đảm giữ vững các nguyên lý cơ bản và phương pháp luận biện chứng khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối và quan điểm của Đảng; phải bao gồm cả nguyên lý cơ bản và kiến thức mới lẫn lý luận chung và kinh nghiệm lãnh đạo, quản lý có tính chất kỹ năng, kỹ thuật; gắn với thực hiện việc nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn. Xây dựng một số chương trình đào tạo, bồi dưỡng đặc biệt dành cho cán bộ dự nguồn các chức danh cao cấp của Đảng, Nhà nước và đoàn thể. Mở rộng và nâng cao chất lượng hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học và đào tạo.

Xác định đúng mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ về đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị trong thời kỳ mới. Đối tượng đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị phải là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp hoặc cán bộ trong quy hoạch. Cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, các ngành cần được đào tạo lý luận chính trị theo tiêu chuẩn chức danh và bồi dưỡng cập nhật kiến thức mới theo quy định. Tổ chức thành nền nếp việc bồi dưỡng lý luận, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên,…

Việc chọn cử người đi học phải đúng đối tượng, đúng tiêu chuẩn, tiêu chí chọn cử rõ ràng và được công khai, minh bạch, tránh phân bổ chỉ tiêu bình quân, hình thức. Cán bộ được cử đi đào tạo, bồi dưỡng phải xác định rõ mục tiêu, động cơ học tập; nâng cao ý thức trách nhiệm, tinh thần tự giác học tập. Khắc phục tình trạng chạy theo bằng cấp, tuyệt đối hóa bằng cấp của cả người dạy, người học, của cơ quan làm công tác cán bộ và cơ quan sử dụng cán bộ.

Hoàn thiện cơ chế, chính sách về đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị. Điều chỉnh, bổ sung những quy định về tiêu chuẩn, chế độ, chính sách đối với giảng viên và người học cho phù hợp. Có chính sách và biện pháp thu hút đội ngũ giảng viên kiêm chức, kiêm nhiệm, thỉnh giảng. Quản lý chặt chẽ quá trình học tập, rèn luyện của học viên trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng. Theo dõi, đánh giá về hiệu quả sử dụng, trưởng thành của đội ngũ cán bộ sau khi được đào tạo, bồi dưỡng.

e) Đổi mới công tác tuyển chọn, bố trí, sử dụng cán bộ

Tiếp tục hoàn thiện chế độ bầu cử; cải tiến cách thức tuyển chọn, lấy phiếu tín nhiệm, bổ nhiệm cán bộ để chọn đúng người, bố trí đúng việc. Mở rộng quyền đề cử, ứng cử và giới thiệu nhiều nhân sự để lựa chọn.

Thực hiện nghiêm quy chế cho thôi chức, miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý. Kịp thời thay thế những cán bộ yếu kém về phẩm chất, năng lực, không hoàn thành nhiệm vụ, để việc “có lên, có xuống, có vào, có ra” được thực hiện bình thường trong bố trí, sử dụng cán bộ.

Xây dựng cơ chế để đảng viên, nhân dân tham gia giám sát cán bộ và công tác cán bộ. Có chế tài xử lý nghiêm những trường hợp chạy chức, chạy quyền, chạy tội, chạy bằng cấp, chạy huân chương.

Thực hiện nghiêm Quy chế chất vấn trong Đảng. Đổi mới cách lấy phiếu tín nhiệm để đánh giá, nhận xét cán bộ theo hướng mở rộng đối tượng tham gia. Quy định việc lấy phiếu tín nhiệm hằng năm đối với các chức danh lãnh đạo trong cơ quan của Đảng, Nhà nước, đoàn thể.

Những người không đủ năng lực, không hoàn thành nhiệm vụ, tín nhiệm thấp cần sắp xếp cho phù hợp; có cơ chế để kịp thời thay thế, không phải chờ đến hết nhiệm kỳ, hết tuổi công tác.

Thí điểm giao quyền cho bí thư cấp ủy lựa chọn, giới thiệu để bầu cử ủy viên thường vụ cấp ủy; cấp trưởng có trách nhiệm lựa chọn, giới thiệu để bầu cử, bổ nhiệm cấp phó.

g) Đổi mới, hoàn thiện chính sách cán bộ

Tập trung nghiên cứu, tiếp tục đổi mới chính sách tiền lương, nhà ở, bảo đảm công bằng, thống nhất theo nguyên tắc phân phối theo lao động.

Sớm quy định để thực hiện thống nhất về chế độ đối với cán bộ chuyển công tác, thôi chức vụ khi về hưu; giải quyết một số điểm quá bất hợp lý về lương và phụ cấp.

Ban hành chính sách, chế độ khuyến khích đối với cán bộ làm việc ở những ngành và vùng cần phải ưu tiên, cán bộ, chuyên gia giỏi, làm việc có hiệu quả, có cống hiến thiết thực cho sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thực hiện chính sách điều tiết đối với người có thu nhập cao, bảo đảm công bằng xã hội. Có chính sách phụ cấp tương xứng với trách nhiệm đối với cán bộ xã, phường. Bổ sung chính sách đối với cán bộ dân tộc thiểu số, cán bộ công tác ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, khuyến khích cán bộ miền xuôi đến công tác ở miền núi, biên giới, hải đảo.

Tiếp tục thực hiện tốt chế độ chăm sóc cán bộ có công với cách mạng (đương chức và nghỉ hưu), trước hết là cán bộ hoạt động trước Cách mạng Tháng tám 1945, cán bộ từng hoạt động ở các chiến trường gian khổ.

h) Thực hiện nghiêm túc chế độ tự phê bình và phê bình

Xây dựng chế độ tự phê bình và phê bình ở các cấp, trước hết là cán bộ chủ chốt; lấy tự phê bình làm chính, chống cách làm hình thức, chiếu lệ.

Có hình thức tổ chức thích hợp để quần chúng nhân dân tại cơ quan, đơn vị và nơi ở tham gia phê bình cán bộ. Nghiêm cấm mọi hiện tượng trấn áp, trù dập người thẳng thắn đấu tranh phê bình cũng như lợi dụng phê bình để đả kích cá nhân, vu cáo, gây rối nội bộ.

Xây dựng và hoàn thiện các quy chế, quy định của Đảng và Nhà nước về chống tham nhũng, buôn lậu, quan liêu, lãng phí và các tệ nạn khác, quy định những điều cấm làm đối với cán bộ, công chức. Đẩy mạnh cải cách hành chính. Bảo đảm quyền giám sát của nhân dân đối với cán bộ, công chức và bộ máy nhà nước.

Xây dựng quy chế thực hiện công khai và dân chủ việc xét duyệt các chương trình kinh tế - xã hội, dự án đầu tư, phân bổ ngân sách, kinh phí, cấp giấy phép,... Tăng cường kiểm kê, kiểm sát, kiểm tra chặt chẽ việc chi tiêu ngân sách nhà nước, tài sản công, tài chính đảng, đoàn thể, các loại quỹ do nhân dân đóng góp ở tất cả các cấp, các ngành từ trung ương đến cơ sở.

Xử lý kịp thời, nghiêm minh theo pháp luật những cán bộ, công chức tham nhũng, buôn lậu, lãng phí và những người bao che, tiếp tay cho các hành vi đó.

Thực hiện việc đổi mới trong công tác cán bộ nhằm đáp ứng yêu cầu của tình hình mới đang đặt ra nhiều thách thức, đòi hỏi Đảng phải thường xuyên tăng cường công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn. Đây là công việc quan trọng, nhưng không thể thực hiện trong ngày một, ngày hai, mà là công việc lâu dài, cần thực hiện kiên trì, kết hợp giữa tuyên truyền nâng cao ý thức của cán bộ, đảng viên, của các các ngành, các cấp với ý kiến đóng góp của quần chúng nhân dân.

TS. Trần văn Minh

Ủy viên Trung ương Đảng, Phó trưởng Ban Tổ chức Trung ương

(Trích trong “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu  của Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền”,

Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, 2014).





Bình luận