Đổi mới quan điểm và cách tiếp cận vấn đề tham nhũng - Một số đề xuất, kiến nghị...

Ngày đăng: 16/03/2015 - 07:03

Những năm gần đây, tình trạng tham nhũng, lãng phí ở nước ta diễn biến phức tạp, với những hình thức rất tinh vi, đã và đang tác động tiêu cực tới nhiều mặt của đời sống xã hội, làm hạn chế thành quả của công cuộc đổi mới. Vì vậy, tích cực phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí là đòi hỏi bức xúc của toàn xã hội, là quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước, nhằm xây dựng bộ máy lãnh đạo, quản lý các cấp trong sạch, vững mạnh.

 

thamnhung

Ngay từ khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cảnh báo về bệnh tham ô, lãng phí, quan liêu và coi đó là một thứ giặc độc ác ở trong lòng, là “kẻ thù của nhân dân”. Người vạch rõ tham ô, lãng phí nảy nở từ bệnh quan liêu, “Ở đâu có bệnh quan liêu thì ở đó chắc có tham ô, lãng phí; nơi nào bệnh quan liêu càng nặng thì nơi đó càng nhiều lãng phí, tham ô1. Theo Người, muốn trừ sạch nạn tham ô, lãng phí thì trước mắt phải tẩy sạch nạn quan liêu. Để phòng, chống bệnh tham ô, lãng phí, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng công tác tuyên truyền, giáo dục cán bộ, đảng viên về nâng cao đạo đức cách mạng, kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, thực hiện tốt “cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư”.

Thấm nhuần sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về phòng, chống tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu, Đảng ta luôn chủ trương đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Trong nhiều năm qua, các văn kiện của Đảng và Nhà nước cũng đã thể hiện rõ quyết tâm chính trị ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng tham nhũng, lãng phí như: Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII, Văn kiện Đại hội lần thứ IX và X của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Cụ thể hóa đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng, Nhà nước đã có Pháp lệnh chống tham nhũng năm 1998, sửa đổi năm 2000, Bộ luật hình sự, Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí... Chủ tịch nước phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng. Chính phủ đã ban hành Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020. Trên cơ sở các quy định về khung pháp lý, các cơ quan của Đảng, Quốc hội, Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương đã và tiếp tục ban hành các quy định theo thẩm quyền, tạo hành lang pháp lý cho công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí.

THỰC TRẠNG VỀ CÔNG TÁC PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG

Trên cơ sở các quy định của Đảng và Nhà nước, trong những năm qua, công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí ở nước ta có sự chuyển biến tích cực cả về nhận thức, hành động. Công tác tuyên truyền, giáo dục về phòng, chống tham nhũng, lãng phí được đẩy mạnh, gắn với việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, qua đó góp phần nâng cao nhận thức, tạo sự thống nhất từ nội bộ và sự đồng thuận xã hội.

Với quyết tâm chính trị đẩy mạnh công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, các cơ quan chức năng của Nhà nước đã tăng cường chỉ đạo xây dựng thể chế, hoàn thiện cơ chế, chính sách tạo ra hành lang pháp lý cho việc thực hiện nhiệm vụ này. Các giải pháp đấu tranh phòng ngừa được tập trung vào những vấn đề như: Xây dựng định mức tiêu chuẩn; xây dựng quy tắc ứng xử; điều chuyển vị trí công tác; xác định trách nhiệm người đứng đầu; kê khai tài sản và minh bạch thu nhập; cải cách thủ tục hành chính... Hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân được đẩy mạnh; ý thức và hành động của nhân dân về phòng, chống tham nhũng, lãng phí được đề cao; các cơ quan thông tin đại chúng phát huy tốt vai trò, trách nhiệm, góp phần quan trọng tạo ra sức mạnh công luận để đẩy mạnh thực hiện công tác này. Các cơ quan chuyên trách về phòng, chống tham nhũng, lãng phí được kiện toàn, từng bước nâng cao chất lượng hoạt động. Từ đó, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí ở nước ta có sự chuyển biến tích cực, bước đầu đã xử lý được một số vụ án tham nhũng lớn. Trong năm 2011, cả nước có 67 người đứng đầu bị xử lý do thiếu trách nhiệm để xảy ra tham nhũng trong phạm vi quản lý (trong đó có 3 trường hợp bị xử lý hình sự, 14 người bị cách chức, cảnh cáo là 16 người và khiển trách là 34 người). Từ kết quả bước đầu đã góp phần củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân đối với công tác này.

Tuy vậy, tình trạng tham nhũng, lãng phí vẫn chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, tiếp tục diễn biến phức tạp, hành vi tham nhũng ngày càng tinh vi hơn; cuộc đấu tranh, phòng, chống vấn nạn này còn nhiều hạn chế, yếu kém, giữa quyết tâm chính trị với kết quả từ việc tổ chức triển khai thực hiện còn khoảng cách lớn; một số vụ án tham nhũng xử lý chậm, kéo dài, gây tâm lý hoài nghi trong cán bộ, đảng viên và quần chúng về tính nghiêm minh của pháp luật; tình trạng một bộ phận cán bộ, công chức trong thực thi công vụ có hành vi nhũng nhiễu, gây phiền hà đối với tổ chức, cá nhân chậm được khắc phục; hiện tượng “chạy chức”, “chạy quyền”, “chạy tội”... chưa được quan tâm chỉ đạo làm rõ;... Điều đó xuất phát từ những nguyên nhân cơ bản sau: Sự sa sút về phẩm chất đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; công tác tuyên truyền, giáo dục về phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa sâu rộng; một số cơ chế, chính sách, quy định về quản lý kinh tế, xã hội và công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí chậm được bổ sung, sửa đổi; sự yếu kém trong lãnh đạo, quản lý, điều hành của một số cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền; công tác tự kiểm tra phát hiện vẫn là khâu yếu, việc xử lý có nhiều khó khăn;... dẫn đến nhiều vụ sai phạm, gây thất thoát lớn tiền, tài sản của Nhà nước ở một số tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, gây bức xúc trong cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân.

Từ những kết quả bước đầu và những tồn tại, hạn chế trong công tác phòng, chống tham nhũng, Nghị quyết Đại hội XI của Đảng nêu rõ: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp, cùng với sự phân hóa giàu nghèo và sự yếu kém trong quản lý, điều hành của nhiều cấp, nhiều ngành làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa sự ổn định, phát triển của đất nước”[2] và “Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt được yêu cầu đề ra. Quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, với những biểu hiện tinh vi, phức tạp, chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, gây bức xúc xã hội”3. Thực tiễn đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí đã cho thấy đây là công việc rất khó khăn, phức tạp, liên quan trực tiếp đến thói quen, xuất phát từ chủ nghĩa cá nhân, lợi ích cục bộ (lợi ích nhóm) của một số tổ chức, cơ quan, đơn vị. Do đó, để góp phần nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh trên lĩnh vực này theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI, và các chủ trương, định hướng, chiến lược lớn của Đảng, Nhà nước, cần đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục cán bộ, công chức, đặc biệt chú trọng giáo dục nâng cao vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong công tác phòng, chống tham nhũng. Để tiếp tục thực hiện tốt hơn nữa công tác này, chúng ta cần phải nhận thức sâu sắc rằng: Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài của công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Do đó, mỗi cán bộ, đảng viên trong tất cả các tổ chức đảng từ Trung ương tới cơ sở phải thật sự gương mẫu thực hiện và trực tiếp tham gia lãnh đạo cuộc đấu tranh này thì mới xoay chuyển được tình hình. Mỗi cấp, mỗi ngành, cơ quan, đơn vị cần xác định nhiệm vụ tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X), kiên quyết phấn đấu để đạt được mục tiêu: ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng, chú ý loại bỏ dần các cơ hội và điều kiện phát sinh tham nhũng, góp phần xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh, đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức liêm chính; củng cố lòng tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.

SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐẨY MẠNH TUYÊN TRUYỀN, GIÁO DỤC CÁN BỘ, CÔNG CHỨC, NHÂN RỘNG ĐIỂN HÌNH TRONG PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG

Việc tuyên truyền, giáo dục các chủ trương, chính sách, pháp luật về phòng, chống tham nhũng trong đội ngũ cán bộ, công chức thời gian qua được thực hiện có trọng tâm, trọng điểm, tập trung triển khai sâu rộng một số biện pháp thiết thực, hiệu quả, phù hợp với nhiều đối tượng, với nhiều hình thức phong phú, như: Mở hội nghị chuyên đề, lồng ghép trong các buổi sinh hoạt cơ quan, đoàn thể, tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng; biên soạn, phát hành tài liệu, panô, áp phích, đưa vào chương trình giáo dục, đào tạo, tổ chức thi tìm hiểu pháp luật... Các bộ, ngành, địa phương đã phát hành hàng trăm nghìn cuốn sách, tài liệu để tuyên truyền, phổ biến chủ trương, chính sách, pháp luật về phòng, chống tham nhũng, nhất là Chiến lược quốc gia về phòng, chống tham nhũng đến năm 2020, cải cách thủ tục hành chính, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Định kỳ hằng năm, tổ chức bồi dưỡng, tập huấn kiến thức pháp luật về phòng, chống tham nhũng cho đội ngũ báo cáo viên pháp luật, cán bộ, công chức, viên chức; triển khai thực hiện “Ngày pháp luật” tại các sở, ban, ngành, địa phương, gắn việc phổ biến giáo dục pháp luật về phòng, chống tham nhũng và Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng, bước đầu mang lại hiệu quả tích cực, tạo sự đồng tình, ủng hộ trong các tầng lớp nhân dân.

Tuy nhiên, công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về phòng, chống tham nhũng chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tế ở một số nơi, mới chú trọng tuyên truyền trong cán bộ chủ chốt; có nơi chỉ sao, gửi văn bản pháp luật cho đơn vị trực thuộc mà không hướng dẫn cụ thể, chưa tiến hành tuyên truyền sâu rộng trong toàn thể cán bộ, công chức. Công tác tuyên truyền còn mang tính hình thức, chưa phù hợp với từng đối tượng, thiếu hấp dẫn; chưa thường xuyên, liên tục, chỉ tập trung vào giai đoạn ngay sau khi Luật phòng, chống tham nhũng hoặc Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng được ban hành, hiệu quả hạn chế. Việc tuyên truyền trên phương tiện truyền thông ở một số nơi còn thiếu chiều sâu (chủ yếu tuyên truyền về vụ việc, vụ án tham nhũng; còn ít tin, bài viết về các giải pháp phòng ngừa tham nhũng, nhất là việc phổ biến các quy định cụ thể về phòng, chống tham nhũng); gương điển hình tiên tiến dũng cảm đấu tranh chống tham nhũng (cá nhân, tập thể) để nhân rộng trở thành phong trào còn ít, chưa kịp thời; chưa tạo được sức lan tỏa rộng rãi tới toàn thể cán bộ, công chức và quần chúng nhân dân, nên chưa thực sự tác động mạnh mẽ, tạo sự hưởng ứng tích cực trong trong đội ngũ cán bộ, công chức thực thi pháp luật về phòng, chống tham nhũng. Do đó, để công tác này ngày càng mang lại hiệu quả tích cực, cần phải thực hiện tốt một số nhiệm vụ trọng tâm sau:

Một là, tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao ý thức trách nhiệm về phòng, chống tham nhũng, lãng phí trong các cấp, các ngành và toàn xã hội, gắn với việc học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư; “Chống tham ô, lãng phí”, gắn với việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí cần đi liền với việc làm cụ thể của mỗi cấp, mỗi ngành, từng cá nhân, đơn vị; từ đó, tạo sự thống nhất, tự giác, quyết tâm cao trong hành động. Đồng thời, có kế hoạch đưa nội dung phòng, chống tham nhũng, lãng phí vào chương trình đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ thường xuyên cho cán bộ, công chức các cấp, các ngành một cách phù hợp.

Hai là, thường xuyên tổ chức tập huấn kiến thức pháp luật về phòng, chống tham nhũng cho đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên, cán bộ pháp chế các cấp; biên soạn các tài liệu tuyên truyền về pháp luật phòng, chống tham nhũng; thực hiện tuyên truyền trên các báo, tạp chí, sóng phát thanh, truyền hình... Các bộ, ngành, địa phương phải tổ chức tập huấn, quán triệt chủ trương, chính sách, pháp luật về phòng, chống tham nhũng tới cán bộ, công chức thông suốt để thực hiện và giám sát việc thực hiện trong đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước. Phát huy vai trò tích cực của báo chí trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí, nhất là trong việc định hướng dư luận xã hội để thấy rõ những kết quả tích cực, cũng như những hạn chế, những khó khăn, phức tạp trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí trong giai đoạn hiện nay; các cơ quan báo chí ở Trung ương và địa phương cần chú trọng đưa tin về các hoạt động phòng, chống tham nhũng, lãng phí, xây dựng các chuyên đề, chuyên mục, chuyên trang, đặc san, phóng sự, các tiểu phẩm về công tác này; tăng cường nêu gương các tập thể, cá nhân có thành tích trong công tác phòng, chống tham nhũng, đây là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, trước hết và chủ yếu là của các cấp ủy đảng và người đứng đầu các cấp, các ngành từ Trung ương đến cơ sở.

Vì vậy, cần tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức và kiến thức về pháp luật phòng, chống tham nhũng của Nhà nước cho tất cả các đối tượng; nắm rõ Chương trình hành động của Chính phủ về phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Chú trọng thực hiện tốt đề án đưa nội dung phòng, chống tham nhũng vào chương trình giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng cho các đối tượng công dân; gắn chặt chẽ công tác tuyên truyền, giáo dục về phòng, chống tham nhũng, lãng phí với việc tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo Chỉ thị số 06-CT/TW của Bộ Chính trị và hướng dẫn của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa XI).

VAI TRÒ, TRÁCH NHIỆM CỦA CẤP ỦY, TỔ CHỨC ĐẢNG, CHÍNH QUYỀN, NGƯỜI ĐỨNG ĐẦU CƠ QUAN, ĐƠN VỊ

Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương (khóa IX) đã chỉ rõ: “Tăng cường vai trò lãnh đạo tập thể của cấp ủy và tổ chức đảng, trong đó làm rõ quyền hạn, trách nhiệm của người đứng đầu tổ chức, của cơ quan tham mưu là nhân tố có ý nghĩa quyết định trong công tác đấu tranh chống tham nhũng”; đồng thời “Đòi hỏi cao đối với cán bộ lãnh đạo, giữ cương vị trọng trách trong bộ máy của Đảng, Nhà nước ở Trung ương và địa phương... phải chịu trách nhiệm trước khuyết điểm tham nhũng, lãng phí, quan liêu trong ngành, địa phương, đơn vị mình. Những cơ quan, đơn vị có sai phạm gây hậu quả nghiêm trọng thì người đứng đầu cơ quan, đơn vị đó dù không trực tiếp vi phạm cũng phải chịu trách nhiệm và hình thức kỷ luật thích hợp”. Trong văn kiện Đại hội X của Đảng, vấn đề trách nhiệm người đứng đầu tiếp tục được chỉ rõ: “Cụ thể hóa và thể chế nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đi đôi với phát huy trách nhiệm của tổ chức và người đứng đầu của tổ chức trong hệ thống chính trị về công tác cán bộ”4; trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (khóa X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, vai trò của người đứng đầu tiếp tục được chỉ rõ: “Thực hiện nghiêm quy định về xử lý trách nhiệm người đứng đầu cơ quan, đơn vị để xảy ra tham nhũng, lãng phí nghiêm trọng”.

Cụ thể hóa quan điểm, nghị quyết của Đảng, Luật phòng, chống tham nhũng dành hẳn 5 điều (từ Điều 54 đến Điều 58) để quy định “Trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra tham nhũng”. Như vậy, từ lâu Đảng ta đã xác định trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác cán bộ, trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí, nhưng trong thực tế, trách nhiệm của người đứng đầu chưa được chỉ rõ, xử lý nghiêm minh khi có vi phạm. Thực tế cho thấy, nhiều vụ án nghiêm trọng liên quan đến nhiều cán bộ các cấp, các bộ, ban, ngành, đoàn thể Trung ương, địa phương thế nhưng người đứng đầu dường như vẫn “đứng ngoài cuộc” hoặc chỉ “xử lý nội bộ”, “rút kinh nghiệm nghiêm khắc”. Đây là biểu hiện của tình trạng nói không đi đôi với làm.

Để khắc phục tình trạng trên, nội dung trách nhiệm cá nhân của cán bộ lãnh đạo, quản lý ở mỗi cấp, đặc biệt trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu phải được luật hóa. Quy định trách nhiệm cá nhân rõ ràng, cụ thể cũng như quyền hạn và quyền lợi mà cán bộ, công chức có khi được giao nhiệm vụ; mỗi khi vụ việc xảy ra, người dân biết ai chịu trách nhiệm chính và những ai chịu trách nhiệm liên đới... Hiện nay, trong các quyết định đề bạt, bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý chỉ quy định quyền lợi cán bộ ấy được hưởng mà không quy định trách nhiệm về công việc phải thực hiện ngoài “trách nhiệm thi hành quyết định này”. Đồng thời, phải tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện, xử lý nghiêm những vi phạm một cách bình đẳng trước pháp luật từ trên xuống dưới. Nếu những cán bộ lãnh đạo, quản lý vi phạm chỉ “kiểm điểm sâu sắc” và “nghiêm khắc rút kinh nghiệm”, theo hình thức nhẹ trên, nặng dưới thì hiệu quả không cao. Chỉ khi người dân được biết, được giám sát việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, nội hàm trách nhiệm cá nhân của từng cán bộ lãnh đạo, quản lý (những đầy tớ của mình); chỉ khi không một ai được sử dụng quyền lực và hưởng quyền lợi mà có thể rũ bỏ được trách nhiệm kèm theo thì trách nhiệm người đứng đầu mới thật sự được xác lập.

Từ đó, để phát huy tốt thẩm quyền, trách nhiệm trong công tác lãnh đạo, quản lý đòi hỏi người đứng đầu (thủ trưởng) ở các cấp ủy, các ngành, các cơ quan, đơn vị phải:

Một là, có trình độ, bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức cách mạng trong sáng, lối sống lành mạnh, giản dị; năng lực chuyên môn cao; phong cách làm việc khoa học.

Hai là, biết tôn trọng nhân dân, biết động viên, phát huy và sử dụng sức mạnh, trí sáng tạo của quần chúng nhân dân vào việc thực hiện tốt những công việc do mình được phân công lãnh đạo, quản lý.

Ba là, không ngừng rèn luyện, nâng cao bản lĩnh lãnh đạo và tinh thần trách nhiệm.

Bốn là, được dân tin, dân cậy, dân phục, dân yêu.

Năm là, không ngừng nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, quản lý của mình trong mọi công việc được giao.

Sáu là, có tính kỷ luật cao và nghiêm minh.

Bảy là, gương mẫu trong mọi công việc.

Vì vậy, muốn đáp ứng yêu cầu, trọng trách được giao, người đứng đầu phải thường xuyên học tập, rèn luyện nâng cao trình độ, bản lĩnh, nhằm hoàn thành tốt công tác lãnh đạo, quản lý, góp phần mang lại lợi ích cho đất nước, cho nhân dân.

Để nâng cao vai trò, trách nhiệm, các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền và người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị phải thật sự coi công tác phòng, chống tham nhũng là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên, vừa cơ bản vừa cấp bách. Gắn việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) với việc tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo Chỉ thị số 06-CT/TW của Bộ Chính trị và Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền các cấp phải cam kết về sự liêm khiết và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí; thường xuyên kiểm tra, nhắc nhở, ngăn ngừa và phát hiện cán bộ, công chức, đảng viên vi phạm; thực hiện việc công khai, minh bạch hoạt động của các cơ quan, đơn vị, cán bộ, đảng viên, nhất là những lĩnh vực dễ xảy ra tiêu cực, tham nhũng, lãng phí.

MỘT SỐ KINH NGHIỆM

Từ những kết quả bước đầu và những khó khăn, hạn chế, yếu kém trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, có thể rút ra một số kinh nghiệm sau:

1. Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao ý thức trách nhiệm về phòng, chống tham nhũng, lãng phí trong các cấp, các ngành của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, gắn với việc học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư”; “Chống tham ô, lãng phí” và việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, đi liền với việc làm cụ thể của mỗi cấp, mỗi ngành, cá nhân, đơn vị; từ đó, tạo sự thống nhất, tự giác, quyết tâm cao trong hành động. Đồng thời, có kế hoạch đưa nội dung phòng, chống tham nhũng, lãng phí vào chương trình đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ thường xuyên cho cán bộ làm công tác này; phát huy vai trò tích cực của báo chí, nhất là trong việc định hướng dư luận xã hội để thấy rõ những kết quả tích cực, cũng như những hạn chế, những khó khăn, phức tạp trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí trong giai đoạn hiện nay.

2. Đề cao trách nhiệm của các cấp ủy đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và cán bộ, đảng viên trong công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; xác định đúng vai trò, vị trí công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, xem đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên, liên tục của các cấp ủy đảng, chính quyền, các ngành, các cấp. Trước hết, phải tự đánh giá đúng thực trạng tình hình tham nhũng, lãng phí trong từng cơ quan, tổ chức, đơn vị; từ đó, xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch về phòng, chống tham nhũng, lãng phí tại cơ quan, đơn vị sát thực và hiệu quả.

3. Vai trò gương mẫu của cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu các cấp là nhân tố đặc biệt quan trọng trong công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, người đứng đầu phải là tấm gương sáng về phẩm chất đạo đức và lối sống. Tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, gắn việc thực thi pháp luật một cách nghiêm minh. Quan tâm công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, đơn vị, các đoàn thể trong sạch, vững mạnh, gắn với việc học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; chủ động phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý kiên quyết, triệt để các biểu hiện, hành vi tiêu cực, tham nhũng, lãng phí. Đưa nhiệm vụ này trở thành một nội dung kiểm điểm định kỳ của cấp ủy, chính quyền các cấp và chương trình kiểm tra, giám sát thường xuyên của cấp ủy.

4. Có các giải pháp đồng bộ để thực hiện có hiệu quả Chiến lược quốc gia về phòng, chống tham nhũng đến năm 2020 (giai đoạn 1) theo hướng: Tăng cường tính công khai, minh bạch, đủ rõ về chế độ trách nhiệm; có khen thưởng và xử lý nghiêm minh theo mức độ chấp hành. Đồng thời, cần sớm hoàn thiện mô hình tổ chức, chính sách, với các giải pháp mạnh dạn và kiên quyết, phù hợp với tình hình thực tế nhằm đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh này.

Mai Văn Chính

Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư tỉnh ủy Long An

Trích từ sách: Bàn về giải pháp phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay,

Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2014.


*****

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội,  t.13, tr.417.

2,3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.173, 172.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2006, tr.137.




 

Bình luận