Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực văn hóa để đáp ứng yêu cầu hội nhập

Ngày đăng: 02/04/2015 - 15:04

Để văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, trước yêu cầu của quá trình hội nhập, thì vấn đề bức thiết đang được đặt ra hiện nay là đổi mới sự lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực văn hóa.

vanhoa-suc manh  111Ảnh minh họa

1- Trong Đề cương Văn hóa Việt Nam (năm 1943), Đảng ta đã xác định phát triển văn hóa Việt Nam dựa vào nguyên tắc dân tộc hóa, khoa học hóa, đại chúng hóa. Ý thức được văn hóa là một lực lượng giúp dân tộc đoàn kết, tạo sức mạnh để vượt qua mọi thử thách, chiến thắng mọi kẻ thù, Đảng ta đã nhấn mạnh đến vai trò dẫn dắt của văn hóa là “soi đường cho quốc dân đi”.

Rõ ràng, trong những giai đoạn lịch sử cụ thể, Đảng ta đã có những chính sách văn hóa phù hợp để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh của dân tộc. Chính nhờ những chỉ đạo và đường lối sáng suốt đó, cách mạng Việt Nam đã giành nhiều thắng lợi vẻ vang. Trong đó, văn hóa đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo ra sức mạnh chung, niềm tin của toàn dân đối với Đảng và tương lai của dân tộc.

Năm 1998, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5, khóa VIII ra đời đã đánh dấu bước tiến quan trọng trong sự nghiệp phát triển văn hóa nước nhà. Nghị quyết xác định đường lối phát triển văn hóa ở Việt Nam, đó là xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Thực hiện Nghị quyết, sau 15 năm, hàng loạt các văn bản chỉ đạo của Đảng, văn bản pháp quy của Nhà nước, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ra đời để hoàn thiện công tác quản lý văn hóa. Các thiết chế văn hóa, như: nhà hát, rạp chiếu phim, triển lãm, các nhà văn hóa cơ sở được xây dựng mới ở khắp nơi trên đất nước, từ thành thị đến nông thôn. Cơ chế, chính sách văn hóa ngày càng linh hoạt, nhạy bén, phù hợp với nhu cầu của thị trường. Văn hóa - nghệ thuật ngày càng đến gần với nhân dân. Hoạt động văn hóa - nghệ thuật phát triển theo hướng phục vụ đời sống tinh thần của nhân dân. Và trên thực tế, văn hóa - nghệ thuật đã có tác động lớn đến đời sống tinh thần, tư tưởng đạo đức, lối sống của người dân.

Thời gian qua, quá trình triển khai thực hiện đường lối, chính sách văn hóa của Đảng và Nhà nước đã được thực hiện khá nghiêm túc ở nhiều cấp, các ngành. Hoạt động văn hóa, văn nghệ, thông tin, thể dục, thể thao ngày càng mở rộng, từng bước đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” từng bước đi vào chiều sâu. Chỉ số phát triển con người không ngừng được tăng lên, Việt Nam đã hoàn thành phần lớn Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ. Tính tích cực, chủ động sáng tạo trong nhân dân được phát huy, dân chủ xã hội được mở rộng. Hệ thống các di sản văn hóa của dân tộc được đầu tư, tôn tạo và phát huy vai trò trong phát triển kinh tế - xã hội. Nhiều di tích văn hóa được cộng đồng quốc tế công nhận là Di sản văn hóa thế giới. Những giá trị văn hóa đặc sắc của các dân tộc anh em trên đất nước Việt Nam được giữ gìn, kế thừa và phát huy, làm phong phú cho nền văn hóa dân tộc.

Đảng và Nhà nước luôn luôn quan tâm chỉ đạo xây dựng và phát triển hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở. Với sự nỗ lực, cố gắng của các địa phương, đến nay hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở đạt được kết quả to lớn. Đã xuất hiện nhiều điển hình, nhiều bài học kinh nghiệm về tổ chức xây dựng hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở thông qua việc huy động các nguồn vốn xã hội hóa, huy động công sức, trí tuệ của nhân dân trong đầu tư xây dựng các thiết chế văn hóa cơ sở.

2- Tuy nhiên, dưới tác động của quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, hoạt động văn hóa cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn. Trước những biến đổi nhanh chóng, đa dạng, phức tạp của đời sống trong nền kinh tế thị trường và bối cảnh toàn cầu hóa, hoạt động quản lý văn hóa còn bộc lộ sự bất cập, hạn chế; phương thức lãnh đạo còn chậm được đổi mới; chúng ta chưa lường hết tính phức tạp và những tác động của mặt trái kinh tế thị trường đối với đời sống văn hóa. Có biểu hiện suy thoái trong lối sống của một bộ phận không nhỏ đảng viên và nhân dân. Vì thế, ngày 09-6-2014, Ban chấp hành Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết số 33-NQ/TW về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước. Từ nghị quyết đến việc triển khai trong thực tiễn còn nhiều khó khăn, đòi hỏi cần triển khai các giải pháp thực sự hiệu quả.

Bên cạnh đó, cùng với việc nâng cao mức sống vật chất và phát triển toàn diện kinh tế - xã hội nước ta, nhu cầu văn hóa tinh thần của quần chúng không ngừng tăng lên. Chính điều này đã tạo động lực mới cho phát triển văn hóa, đồng thời đặt ra những yêu cầu mới, cao hơn đối với sự nghiệp xây dựng văn hóa. Một mặt, quần chúng nhân dân yêu cầu phát triển mạnh mẽ hơn nữa sự nghiệp văn hóa công ích, như: đẩy mạnh việc xây dựng kết cấu hạ tầng văn hóa công cộng, dịch vụ văn hóa công cộng, bảo đảm quyền hưởng thụ văn hóa cơ bản của nhân dân, phát triển mạnh mẽ ngành, nghề văn hóa, làm phồn vinh thị trường văn hóa, cung cấp nhiều sản phẩm văn hóa mới, đa dạng và phù hợp với thị hiếu của nhân dân. Mặt khác, sự phát triển tự thân văn hóa trong bối cảnh mới cũng đòi hỏi phải phá bỏ sự trói buộc của thể chế quản lý truyền thống để cho tài nguyên văn hóa được sử dụng hiệu quả, tính tích cực, chủ động, sáng tạo của đội ngũ làm công tác văn hóa được phát huy đầy đủ. Hiện nay, ở một số địa phương, nhất là những nơi kết cấu hạ tầng văn hóa công cộng thiếu thốn nghiêm trọng, thiết bị cũ kỹ, cơ sở sản xuất văn hóa thiếu sức sống, các sản phẩm văn hóa nước ngoài ồ ạt tràn vào chiếm lĩnh thị trường, làm cho đời sống văn hóa hỗn loạn, mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân bị hạn chế, nhiều sản phẩm văn hóa độc hại xuất hiện làm ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống tinh thần xã hội. Rõ ràng, cần giải phóng mạnh hơn, hiệu quả hơn nữa sức sản xuất văn hóa. Muốn vậy, nhất thiết phải đổi mới thể chế văn hóa, xây dựng thể chế mới vận hành theo nguyên tắc hướng tới quần chúng, hướng ra thị trường. Theo đó, những người làm công tác văn hóa sẽ mang hết tài năng của mình để cống hiến và được trả công xứng đáng, người dân sẽ được hưởng thụ những sản phẩm văn hóa ưu tú, đa dạng, phù hợp với nhu cầu của cá nhân và cộng đồng.

Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo phát triển văn hóa, còn tồn tại một số bất cập. Trước tiên là sự không thống nhất về nhận thức và hành động trong các cấp ủy đảng, lãnh đạo các cấp trong việc đề cao vị trí, vai trò của văn hóa trong phát triển đất nước. Về nhận thức, các nghị quyết của Đảng về văn hóa chỉ rõ vai trò quan trọng của văn hóa là soi đường cho quốc dân đi, là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội, hệ điều tiết của xã hội. Trong các hội nghị bàn về văn hóa, các cấp ủy đảng, lãnh đạo địa phương đều đề cao vai trò của văn hóa. Nhưng đáng tiếc là những nhận thức này chưa được thể hiện thành hành động trong thực tiễn. Ở nhiều địa phương, không ít mục tiêu kinh tế trước mắt đã được đặt lên trên các giá trị văn hóa lâu dài. Thứ hai, các cấp ủy đảng, chính quyền chưa nhận thấy mối liên hệ hữu cơ giữa phát triển văn hóa và các lĩnh vực khác trong đời sống xã hội; chưa thấy sự phát triển văn hóa phục vụ sự phát triển bền vững của địa phương và của đất nước; dẫn đến việc phát triển văn hóa chưa thực sự được kết hợp với các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch, dự án phát triển địa phương, không có mặt trong các đánh giá hiệu quả tác động đến các dự án mới của các địa phương. Thứ ba, công tác cán bộ cho lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng với vị trí, vai trò của văn hóa trong xã hội, chưa được quan tâm đúng mức. Công tác quy hoạch và bổ nhiệm cán bộ trong lĩnh vực văn hóa thời gian qua đã tồn tại nhiều bất cập; dẫn đến tình trạng việc triển khai các hoạt động văn hóa ở các địa phương không được thực hiện tốt. Thứ tư, cơ chế quản lý văn hóa chưa theo kịp cơ chế thị trường dẫn đến việc lúng túng, bị động trong việc giải quyết những vấn đề về văn hóa. Trong khi nền kinh tế của chúng ta đã thử thách qua gần 30 năm đổi mới thì quản lý văn hóa (trong cả tư duy lý luận và thực tiễn) đều vẫn còn đang lúng túng chưa thoát khỏi tư duy bao cấp. Các đơn vị văn hóa luôn bị động, trông chờ vào Nhà nước, chưa năng động tìm kiếm cơ hội kinh doanh ở thị trường; vai trò của các doanh nghiệp văn hóa nhỏ, đơn vị văn hóa tư nhân và các cá nhân nghệ sĩ, những người làm hoạt động sáng tạo chưa được chú ý. Vì thế, chưa tạo ra một thị trường văn hóa năng động và phát triển tương ứng với tiềm năng dồi dào của văn hóa.

3- Chính vì thế, để phát triển văn hóa, giải pháp quan trọng nhất, trước nhất là cải cách thể chế văn hóa; từ đổi mới về tư tưởng, quan niệm về phát triển văn hóa mà nhận thức của các cấp ủy đảng, lãnh đạo là yếu tố vô cùng quan trọng, đến sự kết hợp giữa phát triển sự nghiệp văn hóa công ích với phát triển các ngành kinh doanh văn hóa, đổi mới các thể chế văn hóa với đổi mới chính bản thân văn hóa.

Trên cơ sở nắm chắc xu thế phát triển văn hóa thế giới ngày nay, nhận thức về quy luật xây dựng văn hóa dưới điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cải cách thể chế văn hóa là sự tiếp tục cải cách thể chế kinh tế, chính trị, giáo dục, khoa học - kỹ thuật, y tế, thể thao... Phát triển văn hóa - xã hội hài hòa với phát triển kinh tế, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển, thể hiện rõ nhất tính ưu việt của chế độ ta. Điều đó đã đặt ra một loạt yêu cầu mới cho việc xây dựng văn hóa và cải cách thể chế văn hóa.

Sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước đòi hỏi chúng ta phải cùng lúc đưa xây dựng văn hóa và xây dựng kinh tế, chính trị, xã hội vào toàn cục phát triển. Nguyên lý phát triển kinh tế, xã hội hài hòa đòi hỏi chúng ta phải phát huy sức mạnh tổng lực, hình thành tinh thần dân tộc mới, lấy chủ nghĩa yêu nước làm cốt lõi của tinh thần thời đại mới, lấy quan điểm đổi mới toàn diện, triệt để làm hạt nhân tư tưởng, nhằm tạo ra sự đoàn kết rộng rãi và phát huy tối đa trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân. Do vậy, cần phải cải cách thể chế văn hóa một cách mạnh mẽ và khoa học, tiến hành giải phóng sức sản xuất văn hóa nhằm tạo động lực to lớn cho sự phát triển của nền văn hóa tiên tiến xã hội chủ nghĩa, thực hiện sự phát triển hài hòa giữa xây dựng văn hóa với xây dựng kinh tế, chính trị, xã hội.

Thứ hai, cần tăng cường nhận thức, biến nhận thức thành thực tiễn thông qua các chương trình hành động của các cấp ủy, chính quyền từ Trung ương đến địa phương. Cụ thể hóa các chiến lược văn hóa, đưa mục tiêu văn hóa vào tất cả các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và từng địa phương, đưa yếu tố văn hóa vào tất cả các đơn vị xã hội; để văn hóa trở thành bản chất của mọi hoạt động xã hội, từ đó, tạo ra sức đề kháng của xã hội đối với cái xấu, cái ác. Các chương trình hành động chấn hưng văn hóa cần có sự thống nhất từ Trung ương đến địa phương và có sự kiểm tra, đôn đốc thường xuyên, liên tục. Đây phải được xem là nhiệm vụ trọng tâm của các cấp ủy đảng.

Thứ ba, các luật tạo điều kiện vận hành văn hóa trong nền kinh tế thị trường như các luật về bảo trợ, hiến tặng... cần được ban hành, bổ sung, hoàn thiện, làm cơ sở để phát triển văn hóa, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.

Thứ tư, công tác đào tạo, quy hoạch cán bộ hoạt động trong lĩnh vực văn hóa cần phải được quan tâm hơn, trong đó chú trọng đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ và quy hoạch những cán bộ có năng lực và phẩm chất tốt, là tấm gương tốt trong cộng đồng, xã hội.

Thứ năm, đầu tư cho văn hóa cần tương xứng với vị trí, vai trò của văn hóa trong xã hội; không thể đặt hiệu quả kinh tế làm thước đo cho các đầu tư văn hóa. Xác định việc phát triển văn hóa là nhiệm vụ, trách nhiệm của toàn xã hội, không phải chỉ riêng ngành văn hóa, thể thao và du lịch. Vì vậy, các ngành, các cấp cần có sự phối hợp với nhau và với ngành văn hóa để việc phát triển văn hóa được thuận lợi nhất.

Thứ sáu, phát triển các ngành công nghiệp văn hóa nhằm khai thác và phát huy những tiềm năng văn hóa Việt Nam; cân đối giữa lợi ích kinh doanh với các mục đích chính trị, văn hóa, giáo dục của văn hóa; hướng văn hóa theo sát sự chuyển đổi của thực tế đời sống, nhu cầu của quần chúng nhân dân; khơi dậy sức sáng tạo văn hóa của mọi thành viên trong xã hội. Thúc đẩy sự kết hợp giữa việc bảo tồn và phát huy những tinh hoa văn hóa dân tộc với việc tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Cần khuyến khích xuất khẩu sản phẩm văn hóa mang thương hiệu Việt Nam ra các thị trường nước ngoài, đưa thông điệp văn hóa Việt Nam đến với bạn bè năm châu, góp phần quảng bá văn hóa quốc gia, phục vụ hiệu quả cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

PGS, TS. Bùi Hoài Sơn

Phó Viện trưởng Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam

(Theo Tạp chí Cộng sản)



Bình luận