Lê Hồng Phong - Người cộng sản kiên trung và lạc quan cách mạng

Ngày đăng: 04/09/2012 - 13:09

le-hong-phongTrước khi hy sinh, đồng chí nhắn nhủ với những người bạn tù: “Nhờ các đồng chí nói với Đảng rằng, tới giờ phút cuối cùng, Lê Hồng Phong vẫn một lòng tin tưởng ở thắng lợi vẻ vang của cách mạng”.

Đồng chí Lê Hồng Phong tên thật là Lê Huy Doãn, sinh vào mùa Thu năm 1902 tại xã Hưng Thông, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An trong một gia đình nông dân nghèo. Thuở nhỏ, Lê Huy Doãn được theo học chữ Nho tại trường làng, sau đó chuyển sang học chữ quốc ngữ hết bậc sơ học và thi đậu bằng sơ học yếu lược. Sau khi người cha là cụ Lê Huy Quán qua đời, người mẹ già đau yếu, Lê Huy Doãn không có điều kiện tiếp tục học tập, năm 1920, anh ra Vinh - Bến Thủy mưu sinh và phụ giúp gia đình.

1. Trong khoảng thời gian từ năm 1920-1923 tại thị xã Vinh - Bến Thủy, một trung tâm công nghiệp - thương mại mới của miền Trung, Lê Huy Doãn làm công trong một hiệu buôn của người Hoa, sau đó học việc rồi làm thợ tại Nhà máy diêm Bến Thủy. Thời gian này anh kết bạn với Phạm Thành Khôi, tức Phạm Hồng Thái, hai người trở thành bạn bè, đồng chí thân thiết trên con đường cách mạng tiếp theo. Cuối năm 1923, công nhân Nhà máy diêm Bến Thủy đình công phản đối chủ trừng phạt công nhân và đòi tăng lương. Do tích cực vận động công nhân đấu tranh đòi quyền lợi, phản đối chính sách hà khắc của giới chủ, nên Phạm Thành Khôi và Lê Huy Doãn bị chủ đuổi việc.

Trước đó, từ năm 1920, các hoạt động yêu nước trong vùng Nghệ Tĩnh bị thực dân Pháp đàn áp khốc liệt, hàng trăm thanh niên ở đây xuất dương cứu nước theo đường lối và ảnh hưởng của cụ Phan Bội Châu. Tháng 1-1924, dưới sự tuyển mộ và tổ chức của Vương Thúc Oánh, con rể cụ Phan Bội Châu, 15 thanh niên trong đó có Phạm Thành Khôi và Lê Huy Doãn, vượt Trường Sơn, qua Lào để sang vùng đông bắc Thái Lan hoạt động cách mạng. Trong chuyến đi này, hai anh tự nhủ: “Không làm rạng rỡ non sông, quyết không trở về Tổ quốc, quê hương”. Lê Huy Doãn đổi tên mới là Lê Hồng Phong, Phạm Thành Khôi đổi thành Phạm Hồng Thái. Sau một thời gian ở lại Trại cày của cụ Đặng Thúc Hứa tại Phì Chịt, Thái Lan, hai anh được lựa chọn sang Quảng Châu, Trung Quốc hoạt động. Tại Quảng Châu, tháng 4-1924, Lê Hồng Phong và Phạm Hồng Thái được kết nạp vào Tân Việt Thanh niên Đoàn, tức Tâm Tâm xã - một tổ chức tập hợp những thanh niên Việt Nam yêu nước đấu tranh giành độc lập cho Tổ quốc. Hai tháng sau, vào ngày 19-6-1924, Phạm Hồng Thái được giao nhiệm vụ ám sát Méclanh khi viên Toàn quyền Đông Dương khét tiếng này trên đường sang Nhật ghé qua Quảng Châu dự tiệc ở Sa Diện. Lê Hồng Phong và Lê Hồng Sơn - một thanh niên yêu nước quê ở huyện Nam Đàn, Nghệ An, được giao nhiệm vụ yểm trợ cho Phạm Hồng Thái. Việc không thành, Phạm Hồng Thái nhảy xuống sông Châu Giang hy sinh, Lê Hồng Phong, Lê Hồng Sơn mất đi một người bạn, một người đồng chí thân thiết.

Sau sự kiện này, nhằm tránh sự truy lùng của mật thám, tránh tình trạng bế tắc của Tâm Tâm xã, và để có thêm kiến thức quân sự, nửa cuối năm 1924, được sự giúp đỡ của cụ Phan Bội Châu, Lê Hồng Phong vào học tại Trường Quân sự Hoàng Phố, khóa 2, kéo dài 16 tháng, do nhiều tướng lĩnh của Hồng quân Liên Xô và nhiều cán bộ ưu tú của Đảng Cộng sản Trung Quốc giảng dạy.

Ngày 11-11-1924, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc từ Liên Xô tới Quảng Châu trong phái bộ của Bôrôđin. Khoảng tháng 12-1924, Lê Hồng Phong đã được gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, và từ đây, dưới sự dẫn dắt, đào tạo của Người, Lê Hồng Phong trở thành cán bộ ưu tú của cách mạng, một chiến sĩ cộng sản quốc tế kiên cường. Tháng 2-1925, Nguyễn Ái Quốc chọn Lê Hồng Phong và một số thanh niên ưu tú thành lập nhóm Cộng sản đoàn, sau đó trở thành nòng cốt để thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên - tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam sau này.

Tháng 12-1925, sau khi tốt nghiệp Trường Quân sự Hoàng Phố, Lê Hồng Phong vào học tại Trường Hàng không Quảng Châu, khóa học kéo dài chín tháng. Do nỗ lực học tập và rèn luyện tại trường, Lê Hồng Phong được kết nạp vào Đảng Cộng sản Trung Quốc.

Để đào tạo cán bộ quân sự cho sự nghiệp cách mạng sau này, Nguyễn Ái Quốc vận động Chính phủ Tôn Dật Tiên cử Lê Hồng Phong sang Liên Xô đào tạo tại Trường Lý luận quân sự không quân ở Lêningrát vào tháng 10-1926 và đến tháng 12-1927 chuyển sang học tại Trường Đào tạo phi công quân sự số 2 ở thành phố Bôrítxgơlépxcơ, khóa học kết thúc vào tháng 11-1928. Theo kế hoạch, Lê Hồng Phong sẽ tiếp tục học chuyển loại máy bay quân sự lớn hơn, nhưng lúc này cách mạng Đông Dương đang cần một nhà hoạt động cách mạng chuyên nghiệp hơn là một phi công chiến đấu, nên Quốc tế Cộng sản quyết định chuyển đồng chí Lê Hồng Phong sang đào tạo lý luận dài hạn, bài bản tại Trường Đại học Phương Đông, khóa học ba năm (1928-1931).

Tại đây, Lê Hồng Phong bộc lộ những phẩm chất ưu tú, mẫu mực của người cộng sản nên được nhận xét “là một người cộng sản tích cực và có kỷ luật”, nhờ đó, ngày 25-5-1929, Lê Hồng Phong được kết nạp vào Đảng Cộng sản Liên Xô. Như vậy, trước khi Đảng ta ra đời, Lê Hồng Phong đã là đảng viên của Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đảng Cộng sản Liên Xô.

Sau khi tốt nghiệp khóa học ba năm, tháng 5-1931, đồng chí Lê Hồng Phong tiếp tục làm nghiên cứu sinh tại Trường đại học Phương Đông.

Sau cao trào cách mạng 1930-1931, đỉnh cao là Xôviết Nghệ Tĩnh, phong trào cách mạng trong nước bị thực dân Pháp và bè lũ tay sai đàn áp dã man, nhiều tổ chức Đảng bị vỡ, nhiều đảng viên của Đảng bị bắt bớ, tù đày. Đồng chí Tổng Bí thư Trần Phú bị địch bắt tại Sài Gòn, hầu hết ủy viên Trung ương Đảng, các xứ ủy viên Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ sa vào tay giặc, bị giam cầm, tra tấn, giết hại. Ở nước ngoài, ngày 6-6-1931, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc bị bắt ở Hồng Công, các đồng chí Hồ Tùng Mậu, Trương Vân Lĩnh, Nguyễn Thị Minh Khai, Lê Hồng Sơn... cũng bị bắt, các cơ sở Đảng bị lục soát, khám xét quyết liệt.

2. Trước những tổn thất và khó khăn của cách mạng Đông Dương, tháng 11-1931, Quốc tế Cộng sản quyết định cử Lê Hồng Phong về nước trên cương vị là cán bộ của Ban Chấp ủy Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương chỉ đạo khôi phục lại hệ thống tổ chức Đảng, phong trào cách mạng Việt Nam và Đông Dương.

Thực hiện quyết định của Quốc tế Cộng sản, sau một thời gian chuẩn bị, cuối năm 1931, Lê Hồng Phong từ Liên Xô qua Pháp, Nam Kinh (Trung Quốc), Inđônêxia, Xingapo về Băng Cốc (Thái Lan) định đến Trại cày của cụ Đặng Thúc Hứa ở Phì Chịt (Thái Lan) để bắt liên lạc. Do cảnh sát Thái Lan tăng cường giám sát, thường xuyên theo dõi người nhập cư, cho nên từ Băng Cốc, đồng chí quay lại Hồng Công tìm con đường khác để về Việt Nam. Trong khi chưa thể về Việt Nam, ngày 20-3-1932, đồng chí được tiếp nhận vào học tại Trường đại học Quảng Châu, một mặt, có thêm kiến thức, kinh nghiệm, mặt khác, có điều kiện tìm hiểu tình hình và tổ chức cách mạng ở trong nước qua các đồng chí từ trong nước sang đang hoạt động ở Quảng Châu. Do chính quyền Quốc dân Đảng ở Quảng Châu phản bội, khủng bố những người cách mạng Việt Nam, cho nên Lê Hồng Phong rời Quảng Châu về Nam Ninh (Quảng Tây) tiếp tục bắt liên lạc với các tổ chức cách mạng trong nước. Tại đây, đồng chí may mắn bắt liên lạc được với chi bộ Đảng Cộng sản Đông Dương do đồng chí Hoàng Đình Giong làm Bí thư đang hoạt động ở biên giới Việt - Trung. Tháng 7-1933, đồng chí về Cao Bằng tìm hiểu tình hình, bắt liên lạc với cơ sở cách mạng ở đây rồi trở lại Nam Ninh.

Ngày 16-5-1932, Chương trình hành động của Đảng Cộng sản Đông Dương được Quốc tế Cộng sản thông qua với chỉ dẫn “Chương trình hành động đó cần được công bố với danh nghĩa Ban Chấp hành Trung ương lâm thời Đảng Cộng sản Đông Dương”; đồng chí Lê Hồng Phong là người trực tiếp truyền bá và tổ chức thực hiện tới các tổ chức Đảng ở Đông Dương.

Tháng 3-1934, đồng chí Lê Hồng Phong đến Ma Cao - Trung Quốc cùng với các đồng chí Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Dựt bàn kế hoạch thành lập Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng để thống nhất lãnh đạo các tổ chức Đảng, tiến tới tổ chức lại cơ quan Trung ương của Đảng. Tại hội nghị này, đồng chí Lê Hồng Phong được cử làm Thư ký của Ban Chỉ huy ở ngoài, đồng chí Hà Huy Tập làm Tổng Biên tập Tạp chí Bônsơvích, phụ trách việc tuyên truyền cổ động, đồng chí Nguyễn Văn Dựt phụ trách thanh tra.

Tháng 6-1934, đồng chí Lê Hồng Phong triệu tập và chủ trì hội nghị các đại biểu tổ chức Đảng từ trong nước sang họp với Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng. Hội nghị quyết định:

Một là, thông qua Nghị quyết của Bộ Phương Đông Quốc tế Cộng sản về việc thành lập Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng và công bố nghị quyết về cơ cấu, tổ chức, nhiệm vụ của Ban Chỉ huy ở ngoài trong toàn Đảng.

Hai là, tháng 1-1935 phải thành lập xong các xứ uỷ, và các xứ uỷ cử đại biểu đi dự Đại hội I của Đảng dự kiến họp vào mùa xuân 1935.

Ba là, tổ chức lại Xứ uỷ lâm thời Bắc Kỳ sau khi thành lập được các chi bộ ở Hà Nội, Hải Phòng, Hòn Gai.

Bốn là, giải tán cơ quan Đông Dương viện trợ bộ ở Thái Lan, phối hợp với Đảng Cộng sản Xiêm thành lập cơ quan liên lạc giữa hai đảng.

Năm là, gửi thư cho các Đảng Cộng sản Trung Quốc, Pháp, Thái Lan.

Sau cuộc họp quan trọng này, theo triệu tập của Quốc tế Cộng sản, Ban Chỉ huy ở ngoài cử các đồng chí Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai - người vợ yêu quý của Lê Hồng Phong và Hoàng Văn Nọn do đồng chí Lê Hồng Phong làm Trưởng đoàn đi dự Đại hội VII Quốc tế Cộng sản ở Mátxcơva, tại Trường đại học Phương Đông, đoàn được gặp gỡ lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc vào ngày 10-12-1934.

Trong khi Đoàn đang ở Mátxcơva, từ ngày 27 đến ngày 31-3-1935, tại Ma Cao, Trung Quốc, Đại hội I của Đảng được triệu tập. Đại hội bầu đồng chí Lê Hồng Phong làm Tổng Thư ký của Đảng (Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII (1996-2001) đã công nhận đồng chí là Tổng Bí thư sau đồng chí Trần Phú). Đại hội cũng đã chuẩn y việc Ban Chỉ huy ở ngoài cử Đoàn đại biểu Đảng ta đi dự Đại hội VII Quốc tế Cộng sản và chỉ định thêm các đồng chí Nguyễn Ái Quốc (đang ở Mátxcơva), Phạm Văn Xô, Nguyễn Chánh Nhì tham gia đoàn.

Tại Đại hội VII Quốc tế Cộng sản, đồng chí Lê Hồng Phong được bầu vào Đoàn Chủ tịch Đại hội, được Đại hội bầu là Uỷ viên chính thức Ban Chấp uỷ Quốc tế Cộng sản và có nhiều hoạt động tích cực, đóng góp cho thành công của Đại hội. Cũng tại Đại hội này, Đảng Cộng sản Đông Dương được công nhận là phân bộ chính thức của Quốc tế Cộng sản, đồng chí Lê Hồng Phong (với bí danh Hải An), được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản. Điều đó khẳng định ảnh hưởng và uy tín của Đảng ta trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản kết thúc, đồng chí Lê Hồng Phong trở lại Thượng Hải (Trung Quốc). Khi đó, Đại hội toàn quốc lần thứ I của Đảng ta đã bế mạc, đồng chí Lê Hồng Phong được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng.

Sau Đại hội, ngày 4-5-1936, đồng chí Lê Hồng Phong gửi thư cho Ban Bí thư Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản: “Đề nghị cho phép được trở về Đông Dương. Vì sau Đại hội VII của Quốc tế Cộng sản chưa có ai trong số các đại biểu của Đông Dương lên đường về nước và Đảng yêu cầu tôi trở về nước”.

Tháng 7-1936, về đến Thượng Hải, đồng chí triệu tập và chủ trì Hội nghị với các đồng chí trong Ban Chỉ huy ở ngoài bàn về công tác tổ chức của Đảng và đường lối đấu tranh trong tình hình mới sau Đại hội VII Quốc tế Cộng sản. Hội nghị quyết định chuyển hướng mục tiêu và nhiệm vụ trước mắt của cách mạng; xác định rõ mục tiêu trực tiếp là đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa, chống phát xít và chiến tranh đế quốc, đòi dân sinh, dân chủ và hòa bình. Xác định: Kẻ thù chủ yếu trước mắt của nhân dân Đông Dương là bọn phản động thuộc địa và bè lũ tay sai, theo đề nghị của Lê Hồng Phong, Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận Nhân dân phản đế Đông Dương - tổ chức tập hợp và thống nhất lực lượng chống phát xít và phản động thuộc địa tại Việt Nam. Đồng thời, Hội nghị bàn và thực hiện lời căn dặn của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc: “Trung ương Đảng phải chuyển về trong nước để trực tiếp lãnh đạo phong trào; không thoả hiệp với bọn tờrốtkít; lập Mặt trận Dân tộc dân chủ rộng rãi chống phát xít, chống chiến tranh đế quốc”. Hội nghị quyết nghị bầu đồng chí Hà Huy Tập là Thư ký Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng thay đồng chí Lê Hồng Phong.

Sau hội nghị này, ngày 12-10-1936, tại Nam Kỳ, Ban Chấp hành Trung ương Đảng được tổ chức lại. Ngày 13 và 14-3-1937, Hội nghị cán bộ ở ba kỳ cử Ban Chấp hành Trung ương gồm 11 uỷ viên. Đồng chí Lê Hồng Phong và đồng chí Phùng Chí Kiên được Ban Chấp hành Trung ương phân công “làm cán bộ dự trữ ở lại nước ngoài để sau này trở về nước tổ chức lại các tổ chức của Đảng trong trường hợp các đồng chí có trách nhiệm trong nước bị bắt; đồng thời giữ liên lạc với Quốc tế Cộng sản”. Ban Thường vụ Trung ương gồm 5 đồng chí do đồng chí Hà Huy Tập làm Tổng Bí thư.

Từ đây, giữa Ban Chỉ huy ở ngoài và Ban Chấp hành Trung ương trong nước có nảy sinh những quan điểm khác nhau trong cách thức chỉ đạo phong trào cách mạng. Vì vậy, cuối tháng 10, đầu tháng 11-1937, đồng chí Lê Hồng Phong bàn giao công việc của Ban Chỉ huy ở ngoài cho đồng chí Phùng Chí Kiên phụ trách để về Sài Gòn - Chợ Lớn thảo luận với Ban Chấp hành Trung ương lãnh đạo phong trào cách mạng trong nước cho phù hợp với tình hình mới.

3. Cuối tháng 3-1938 tại Bà Điểm, Hóc Môn, Gia Định, Hội nghị Trung ương Đảng đã họp quyết định đường lối đấu tranh mới và công tác tổ chức xây dựng Đảng. Hội nghị đã cử ra Ban Chấp hành Trung ương mới gồm 11 uỷ viên, Ban Thường vụ gồm 5 đồng chí: Nguyễn Văn Cừ, Hà Huy Tập, Lê Hồng Phong, Võ Văn Tần, Nguyễn Chí Diểu, do đồng chí Nguyễn Văn Cừ làm Tổng Bí thư.

Thời gian này, đồng chí Lê Hồng Phong cùng với Ban lãnh đạo của Đảng tích cực tham gia khôi phục tổ chức của Đảng và lãnh đạo phong trào dân chủ, tích cực đấu tranh trên mặt trận báo chí cách mạng của Đảng, góp phần đưa phong trào cách mạng tiến lên.

Từ ngày về Nam Bộ hoạt động, mật thám Pháp theo dõi sát sao và lùng bắt bằng được đồng chí vì kẻ địch biết rõ đồng chí là Uỷ viên Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản và là một cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Đảng ta.

Ngày 22-6-1939, đồng chí bị sa vào tay giặc và bị Toà tiểu hình Sài Gòn kết án 6 tháng tù, 3 năm cấm cư trú. Ngày 29-8-1939, Toà thượng thẩm Sài Gòn xử y án. Hết hạn tù, ngày 23-12-1939, đồng chí Lê Hồng Phong được thả nhưng bị trục xuất khỏi Nam Kỳ, áp giải về quê.

Đầu năm 1940, dù Lê Hồng Phong đang bị quản thúc tại quê nhà, nhưng để hạn chế hoạt động và ảnh hưởng của đồng chí, Toà án Pháp kết tội đồng chí “hoạt động lật đổ” và ra trát dẫn độ về Sài Gòn. Ngày 22-10-1940, Toà thượng thẩm Sài Gòn kết án đồng chí 5 năm tù, mất quyền công dân và chính trị, 10 năm cấm cư trú vì “hoạt động lật đổ”. Cuối năm 1940, sau một thời gian đồng chí bị giam giữ ở Sài Gòn, địch đày đồng chí ra Nhà tù Côn Đảo. Đồng chí đã cùng các chiến sĩ cộng sản trong tù tiếp tục đấu tranh, giữ vững khí tiết trước đòn roi tra tấn dã man của kẻ thù. Đồng chí hy sinh ngày 6-9-1942 khi vừa tròn 40 tuổi. Trước khi hy sinh, đồng chí nhắn nhủ với những người bạn tù: “Nhờ các đồng chí nói với Đảng rằng, tới giờ phút cuối cùng, Lê Hồng Phong vẫn một lòng tin tưởng ở thắng lợi vẻ vang của cách mạng”. Hai vợ chồng, hai người đồng chí, hai nhà lãnh đạo của Đảng: Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai đã cùng các đồng chí khác viết nên trang sử vàng vẻ vang của Đảng và cách mạng Việt Nam.

Đánh giá về lớp cán bộ tài năng, trung kiên bất khuất thời dựng Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Các đồng chí ta như đồng chí Trần Phú, đồng chí Ngô Gia Tự, đồng chí Lê Hồng Phong, đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai, đồng chí Hà Huy Tập, đồng chí Nguyễn Văn Cừ, đồng chí Hoàng Văn Thụ, và trăm nghìn đồng chí khác đã đặt lợi ích của Đảng, của cách mạng, của giai cấp, của dân tộc lên trên hết, lên trước hết. Các đồng chí đó đã tin tưởng sâu sắc, chắc chắn vào lực lượng vĩ đại và tương lai vẻ vang của giai cấp và của dân tộc. Các đồng chí ấy đã vui vẻ hy sinh hết thảy, hy sinh cả tính mệnh mình cho Đảng, cho giai cấp, cho dân tộc. Các đồng chí ấy đã đem xương máu mình vun tưới cho cây cách mạng, cho nên cây cách mạng đã khai hoa, kết quả tốt đẹp như ngày nay”.

Theo Tạp chí Tuyên giáo

Bình luận