Một số vấn đề về phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở nước ta hiện nay

Ngày đăng: 05/03/2015 - 07:03

bo-truong-tran-dai-quang

Qua hơn 26 năm thực hiện công cuộc đổi mới, chúng ta đã tranh thủ thời cơ, thuận lợi, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng, đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện. Các lĩnh vực văn hoá, xã hội đạt được những thành tựu quan trọng trên nhiều mặt, nhất là xoá đói, giảm nghèo. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững. Công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế được triển khai sâu rộng và hiệu quả, góp phần tạo môi trường hoà bình, ổn định, tạo thế và lực bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Tuy nhiên, nước ta vẫn đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến khó lường, không thể coi thường bất cứ thách thức nào. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng. Những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến hoà bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta.

1. “Tự diễn biến” được hiểu là quá trình đấu tranh giữa các mặt tích cực và tiêu cực, giữa tư tưởng xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa trong nội tâm người cán bộ, đảng viên trước những tác động phức tạp của tình hình trong nước và quốc tế. Trong đó, yếu tố tiêu cực và tư tưởng tư bản chủ nghĩa dần dần tăng lên; yếu tố tích cực, cách mạng, tư tưởng xã hội chủ nghĩa phai nhạt dần. Đây là quá trình biến đổi từ bên trong chủ thể, đến một thời điểm nhất định, sự biến đổi này sẽ chuyển hóa thành hành động của chủ thể.

“Tự chuyển hoá” là sự nối tiếp của quá trình “tự diễn biến”. Khi sự biến đổi về chất đã làm thay đổi quan điểm tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên sẽ dẫn đến hành động chống lại chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

“Tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ là sự suy thoái từ bên trong; là quá trình tự biến đổi về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên theo chiều hướng tiêu cực, làm mất dần các chuẩn mực của người cộng sản, dẫn đến xa rời những nguyên tắc, quan điểm mácxít; suy giảm nghiêm trọng niềm tin vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đến khi những yếu tố cách mạng, tích cực bị phai nhạt, triệt tiêu, tư tưởng phi xã hội chủ nghĩa tăng dần, thắng thế, lúc đó sẽ dẫn đến sự “tự chuyển hoá” cán bộ, đảng viên từ người tốt trở thành phần tử chống đối Đảng, Nhà nước. “Tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” của cá nhân nếu không được ngăn chặn kịp thời, triệt để sẽ dẫn đến tổ chức bị suy thoái, tự tan rã. Khi “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” diễn ra ở tầm vĩ mô sẽ dẫn đến sự chuyển hoá từ chế độ xã hội chủ nghĩa sang phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa.

“Tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” ở nước ta đang diễn biến hết sức phức tạp trên các lĩnh vực của đời sống xã hội với nhiều mức độ khác nhau.

“Tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” về tư tưởng chính trị là sự phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; thiếu niềm tin, hoài nghi, thậm chí phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng; xa rời các nguyên lý xây dựng Đảng, đòi Đảng từ bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ để hướng theo tư tưởng đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; phê phán lịch sử thiếu khách quan; đòi xét lại con đường đi lên xã hội chủ nghĩa và thay bằng con đường phát triển tư bản chủ nghĩa; xuyên tạc, bôi nhọ hình ảnh lãnh tụ và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước... Thực tế các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô (cũ) cho thấy, “tự diễn biến” trước hết và chủ yếu về tư tưởng chính trị. Khi tư tưởng chính trị chệch hướng, tất yếu làm cho bộ máy của Đảng và Nhà nước bị chia rẽ, suy thoái, nguy cơ “tự chuyển hoá”, sụp đổ của thể chế chính trị là điều khó tránh khỏi. Đó là lý do lý giải vì sao những năm qua, các thế lực thù địch luôn đặt trọng tâm thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” về tư tưởng chính trị, trước hết nhằm vào các cơ quan lãnh đạo, cán bộ chủ chốt của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, nơi hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của đất nước. Tuỳ theo đối tượng và phạm vi tác động, các thế lực thù địch sử dụng những phương thức, thủ đoạn, nội dung thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” khác nhau.

“Tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” về kinh tế là sự phủ nhận nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đòi tư nhân hoá toàn bộ nền kinh tế, xoá bỏ chế độ công hữu về tư liệu sản xuất để thay thế bằng chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất... Khi sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa giữ vai trò chi phối cơ sở hạ tầng kinh tế thì kiến trúc thượng tầng kinh tế xã hội chủ nghĩa tất yếu thay đổi, chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa được thay bằng chế độ kinh tế tư bản chủ nghĩa. Đó là mục đích của “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trên lĩnh vực kinh tế trong chiến lược “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch đối với nước ta hiện nay.

Trên lĩnh vực văn hoá, xã hội, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” là sự đề cao, sùng bái, chạy theo văn hoá, lối sống tư sản; từ bỏ các giá trị văn hoá, đạo đức truyền thống, các giá trị văn hoá, đạo đức xã hội chủ nghĩa; xuyên tạc lịch sử, phủ nhận nền văn hoá cách mạng; đánh mất bản sắc văn hoá dân tộc; đề cao chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng... “Tự diễn biến” về văn hoá, xã hội, đạo đức, lối sống thường là sự khởi đầu cho “tự diễn biến” về tư tưởng chính trị.

Thực tiễn ở Việt Nam trong thời gian qua cho thấy, tình trạng “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” rất nguy hiểm, bọn phản động bên ngoài tìm cách móc nối, một số trường hợp đã “diễn biến” từ ta sang địch. Một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, phai nhạt lý tưởng cách mạng, thiếu niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; nhìn nhận, phê phán lịch sử thiếu khách quan; đòi đa nguyên, đa đảng theo mô hình dân chủ phương Tây; cổ suý cho những mô hình phát triển kinh tế - xã hội xa rời thực tiễn Việt Nam. Một số cán bộ đã về hưu công khai phê phán thiếu căn cứ về sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Chính phủ, đòi xoá bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin; một số đảng viên trí thức, văn nghệ sĩ, luật sư đòi xoá bỏ Điều 4 Hiến pháp về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, đòi hệ thống tư pháp theo hướng “tam quyền phân lập” kiểu phương Tây. Qua công tác đấu tranh của lực lượng công an cho thấy rõ ý đồ của các thế lực thù địch lợi dụng các hoạt động hợp tác về giáo dục, đào tạo để tuyển lựa, đưa người chui sâu, leo cao vào các cơ quan đảng, cơ quan nhà nước và ý đồ tạo dựng “ngọn cờ” trong số cán bộ, đảng viên được coi là có tư tưởng “cấp tiến” nhằm thực hiện “cách mạng màu” ở Việt Nam.

Nhận rõ tính chất nguy hiểm của “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ, vấn đề “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” lần đầu tiên được nêu trong Kết luận số 86-KL/TW, ngày 5-11-2010 của Bộ Chính trị (khoá X) về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về Tăng cường lãnh đạo công tác bảo đảm an ninh quốc gia trong tình hình mới. Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng đã khẳng định: “Chủ động phòng ngừa, đấu tranh, phê phán những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ ta; khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên”(1). Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI) Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay đã tiếp tục khẳng định tư tưởng chỉ đạo của Đảng: “Chủ động phòng ngừa, đấu tranh, phê phán những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ Đảng"(2).

Nghị quyết các kỳ đại hội trước chỉ đề cập đến âm mưu và hoạt động “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch và xem đó như nhân tố chủ yếu tác động đến ổn định chính trị - xã hội và có thể dẫn đến việc Đảng mất vai trò lãnh đạo đối với Nhà nước và xã hội, làm sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Việc đưa vấn đề “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ vào Nghị quyết Đại hội lần thứ XI và các nghị quyết khác của Trung ương là nhận thức mới và chứng tỏ Đảng ta đã nghiêm túc nhận thấy rõ tính chất nghiêm trọng của vấn đề cần quan tâm giải quyết.

2. Từ thực tiễn đấu tranh phòng, chống “diễn biến hoà bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, rút ra một số kinh nghiệm sau:

a) Đấu tranh phòng, chống “diễn biến hoà bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân; của các ngành, các cấp dưới sự lãnh đạo của Đảng

Thực tế đã chứng minh, âm mưu, hoạt động “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch nhằm xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là không thay đổi; chỉ có phương thức, thủ đoạn của chúng là thay đổi. Vì vậy, đấu tranh phòng, chống “diễn biến hoà bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành dưới sự lãnh đạo của Đảng, đòi hỏi phải chủ động, kiên trì, thực hiện thường xuyên, liên tục. Đây không phải là mặt trận có giới tuyến địch - ta rõ ràng, mà phải sử dụng tư tưởng, lý luận cách mạng đánh bại tư tưởng, lý luận phản động; sử dụng chính nghĩa và sự thật đánh bại sự xuyên tạc, vu cáo; học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh để khắc phục suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; sử dụng sức mạnh của cả hệ thống chính trị, của toàn dân trong đấu tranh phòng, chống “diễn biến hoà bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”.

Bài học từ sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu cho thấy, do xa rời những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội, buông lỏng cuộc đấu tranh chống “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch đã thúc đẩy nhanh quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, làm mất vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và chế độ xã hội chủ nghĩa nhanh chóng tan rã, đúng như V.I. Lênin đã cảnh báo: Không ai có thể tiêu diệt được chúng ta, ngoài những sai lầm của bản thân chúng ta. Toàn bộ vấn đề là ở chữ “nếu” này. Nếu chúng ta do sai lầm mà gây ra sự chia rẽ thì tất cả sẽ sụp đổ...

b) Tăng cường công tác tư tưởng, lý luận, bảo vệ và giữ vững nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - nhân tố quyết định thắng lợi trong đấu tranh phòng, chống “diễn biến hoà bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”

Trên lĩnh vực tư tưởng, các thế lực thù địch luôn tập trung xuyên tạc, vu cáo, mưu toan xoá bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm thực hiện ý đồ chiến lược làm chuyển hoá thể chế chính trị ở nước ta. Trong cuốn sách 1999 - chiến thắng không cần chiến tranh, Níchxơn viết: “Mặt trận tư tưởng là mặt trận quyết định nhất, toàn bộ vũ khí của chúng ta, các hoạt động mậu dịch, viện trợ, quan hệ kinh tế sẽ không đi đến đâu nếu chúng ta thất bại trên mặt trận tư tưởng”.

Để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, trong bất cứ hoàn cảnh nào, dù tình hình thế giới và trong nước khó khăn, phức tạp đến đâu, Đảng ta vẫn luôn bảo vệ và giữ vững chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu, lý tưởng cộng sản. Theo quan điểm của Đảng ta, tuy có những vấn đề cần bổ sung, phát triển, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn là học thuyết cách mạng khoa học nhất, tiên tiến nhất, là “vũ khí tinh thần” của giai cấp công nhân, là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.

Công tác tư tưởng, lý luận có vai trò, vị trí quan trọng trong việc xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; khẳng định, bảo vệ và tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; giữ vững sự đoàn kết thống nhất trong Đảng và sự đồng thuận trong xã hội, góp phần thực hiện thắng lợi cuộc đấu tranh phòng, chống “diễn biến hoà bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”. Nghị quyết Trung ương 5 (khoá X) Về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới chỉ rõ: “Công tác tư tưởng, lý luận là một bộ phận cấu thành đặc biệt quan trọng trong toàn bộ hoạt động của Đảng; là lĩnh vực trọng yếu để xây dựng, bồi đắp nền tảng chính trị của chế độ… thể hiện vai trò đi trước, mở đường trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc…; đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, làm cho hệ tư tưởng của Đảng, của giai cấp công nhân, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, những giá trị tốt đẹp trong truyền thống văn hóa dân tộc, những tinh hoa văn hoá thế giới chiếm vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội”(3).

Thực tiễn đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” cho thấy, trong quá trình xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước, khi khó khăn, thử thách xuất hiện là lúc tư tưởng dễ dao động, tâm lý hoang mang, mất phương hướng dễ nảy sinh trong một bộ phận cán bộ, đảng viên; đó cũng là lúc nguy cơ giảm sút lòng tin, phai nhạt lý tưởng… có cơ hội phát triển. Vì vậy, đẩy mạnh công tác tư tưởng, lý luận luôn là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, góp phần giải đáp những vấn đề do thực tiễn đặt ra, củng cố niềm tin vào lý tưởng cộng sản và con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.

c) Sử dụng các biện pháp quyết liệt, khắc phục những sơ hở, yếu kém trong quản lý kinh tế - xã hội, tích cực tạo bước chuyển biến mới trong phòng, chống tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí

Suy thoái về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” có mối quan hệ chặt chẽ với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và những sơ hở, yếu kém trong quản lý kinh tế - xã hội. Suy thoái về tư tưởng chính trị cùng với tệ quan liêu là nguyên nhân dẫn đến tham nhũng, lãng phí; tham nhũng, lãng phí tác động trở lại, làm suy thoái tư tưởng chính trị, “tự chuyển hoá”, “tự diễn biến” nhanh hơn. Khi lún sâu vào tham nhũng, cán bộ, đảng viên càng xa rời mục tiêu, lý tưởng của Đảng, thậm chí phản bội nhân dân, phản bội Đảng. Tham nhũng tất yếu dẫn đến suy thoái về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, nhưng không phải tất cả những người suy thoái về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” đều tham nhũng. Vì vậy, để đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” có hiệu quả, cần có biện pháp quyết liệt, khắc phục tệ quan liêu, những sơ hở, yếu kém trong quản lý kinh tế - xã hội là điều kiện thuận lợi để tham nhũng, lãng phí, phát triển; đồng thời tích cực tạo bước chuyển biến mới trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí.

d) Tăng cường giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân là nhân tố quan trọng trong đấu tranh phòng, chống “diễn biến hoà bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”

Đối tượng tác động của “diễn biến hoà bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” mà các thế lực thù địch hướng tới là đội ngũ cán bộ, đảng viên. Vì vậy, giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân là một trong những nhân tố quan trọng trong đấu tranh phòng, chống “diễn biến hoà bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”. Việc rèn luyện đạo đức cách mạng là công việc khó khăn, đòi hỏi nhiều công phu, nghị lực mới có thể chiến thắng chủ nghĩa cá nhân trong cán bộ, đảng viên. Để giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng có hiệu quả, phải kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo, bồi dưỡng ở nhà trường với sự tự phấn đấu, tự rèn luyện của cán bộ, đảng viên trên cương vị công tác và trong cuộc sống riêng của mỗi người. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”[4]. Thực tiễn cho thấy, đã có một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái nghiêm trọng về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; có người công khai bày tỏ ý kiến trái với Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, làm trái nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng, thậm chí có người “sám hối”, “trở cờ”; tình trạng tham nhũng, quan liêu, xa dân, vi phạm nguyên tắc Đảng... là điều đáng lo ngại nhất và cũng là nguy cơ lớn nhất đối với một đảng cầm quyền. Suy đến cùng là do không vượt qua được chủ nghĩa cá nhân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhấn mạnh, chủ nghĩa cá nhân là kẻ thù hung ác, là giặc nội xâm, nó không mang gươm, mang súng nhưng vô cùng nguy hiểm, gian giảo, xảo quyệt; nó kéo người ta xuống dốc không phanh. Mọi thứ xấu xa, hư hỏng đều sinh ra từ căn bệnh này. Nếu không đánh bại, không quét sạch chủ nghĩa cá nhân thì Đảng ta không thể trong sạch, vững mạnh được, không thể là một đảng cách mạng chân chính hết lòng vì nước, vì dân.

đ) Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, góp phần đấu tranh phòng, chống “diễn biến hoà bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”

Trong cuộc đấu tranh phòng, chống “diễn biến hoà bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng giữ vai trò quan trọng, góp phần phát hiện, kịp thời khắc phục những khuyết điểm khi mới manh nha. Kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng gồm nhiều nội dung, trước hết là kiểm tra việc đảng viên thực hiện Điều lệ Đảng, Quy định những điều đảng viên không được làm; kiểm tra đảng viên có dấu hiệu vi phạm; kiểm tra đảng viên thực hiện chỉ thị, nghị quyết của Đảng; kiểm tra, giám sát về phẩm chất đạo đức và kết quả thực hiện nhiệm vụ chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, chấp hành chủ trương của cấp uỷ. Trong kiểm tra, giám sát, cần chú ý lắng nghe dư luận của quần chúng, tiếp nhận ý kiến của Mặt trận, đoàn thể nhân dân nhận xét, phê bình cán bộ, đảng viên; coi trọng phát hiện các nhân tố tích cực, điển hình tiên tiến, giúp cho cấp uỷ tổng kết, rút ra những kinh nghiệm hay, những cán bộ, đảng viên tiêu biểu… để bồi dưỡng và nhân rộng. Thực tiễn cho thấy, ở những nơi làm tốt công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, thì nơi đó, những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống được phát hiện và ngăn chặn từ manh nha, tổ chức đảng được củng cố vững mạnh, phòng, chống có hiệu quả những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”.

e) Kết hợp chặt chẽ giữa chủ động đấu tranh phòng, chống “diễn biến hoà bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, “giữ vững bên trong là chính”, “tự bảo vệ mình là chính” với tinh thần tích cực tấn công, làm thất bại âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch

 Để chủ động phòng ngừa “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, cần chăm lo xây dựng hệ thống chính trị, trước hết là xây dựng Đảng và Nhà nước thực sự trong sạch, vững mạnh; mọi thành viên của các cơ quan, tổ chức có khả năng đề kháng tốt, là cơ sở để ngăn ngừa các tác động tiêu cực từ bên ngoài; đồng thời, chủ động đấu tranh với mọi biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”. Chủ động phòng ngừa và đấu tranh với “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” là hai mặt của một vấn đề có mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại lẫn nhau, bảo đảm thắng lợi của cuộc đấu tranh chống “diễn biến hoà bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”. Mọi âm mưu, hoạt động thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” của các thế lực thù địch sẽ bị vô hiệu hoá, nếu nội bộ Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Thực tiễn chỉ ra rằng, cơ quan, đơn vị nào làm tốt công tác xây dựng Đảng, xây dựng cơ quan, đơn vị trong sạch, vững mạnh; làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ, thì ở đó không xảy ra hiện tượng “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, các thế lực thù địch không tìm được “kẽ hở”, “điểm yếu” để thực hiện âm mưu “diễn biến hoà bình”.

Tuy nhiên, nếu chỉ chủ động phòng ngừa, đấu tranh với “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” mà không kết hợp với tích cực tấn công, làm thất bại âm mưu, hoạt động “diễn biến hoà bình”, thì hiệu quả cuộc đấu tranh không cao, các thế lực thù địch sẽ có thời cơ và điều kiện chống phá quyết liệt hơn. Vì vậy, cần kết hợp chặt chẽ giữa chủ động phòng ngừa, đấu tranh với “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, “giữ vững bên trong là chính”, “tự bảo vệ mình là chính” với tinh thần tích cực tấn công, làm thất bại âm mưu, hoạt động “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch.

3. Những thành tựu, kinh nghiệm của hơn 25 năm đổi mới đã tạo ra cho đất nước ta thế và lực, sức mạnh tổng hợp lớn hơn gấp nhiều lần so với thời kỳ trước. Tuy nhiên, nước ta vẫn đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen, tác động tổng hợp, diễn biến phức tạp, không thể coi thường bất cứ thách thức nào. Các thế lực thù địch tiếp tục ráo riết thực hiện “diễn biến hoà bình” đối với các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, trong đó có Việt Nam. Chúng gia tăng các hoạt động bạo loạn lật đổ, đồng thời tìm cách tác động, tạo môi trường thuận lợi thúc đẩy nhanh các yếu tố “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ ta. Đây là hai “gọng kìm” (“diễn biến hoà bình” và “tự diễn biến hoà bình”) nhằm xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Do đó, để đấu tranh làm thất bại âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, cần tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ: đấu tranh chống “diễn biến hoà bình” và phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ ta, trong đó, tập trung làm tốt những công tác sau: 

- Cấp uỷ và tổ chức đảng, các cơ quan nhà nước, đoàn thể cần nhận thức đúng tình hình, thấy rõ nguy cơ cũng như âm mưu, phương thức, thủ đoạn hoạt động “diễn biến hoà bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” của các thế lực thù địch; giáo dục cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu đúng bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, từ đó nâng cao niềm tin vào lý tưởng cộng sản, vào con đường xã hội chủ nghĩa; hiểu rõ bản chất không hề thay đổi của chủ nghĩa đế quốc, nâng cao nhận thức tư tưởng và giác ngộ lòng yêu nước xã hội chủ nghĩa, nâng cao cảnh giác, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của kẻ địch. Đẩy mạnh đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch, vô hiệu hoá các trang mạng xã hội có nội dung xấu; tăng cường giáo dục, đối thoại với những người có quan điểm sai trái, ngăn chặn sự tác động của bọn phản động bên ngoài, không đẩy họ vào thế đối địch, đồng thời kiên quyết xử lý những trường hợp đã “diễn biến” từ ta sang địch.

- Quán triệt và thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các chỉ thị, nghị quyết của Đảng và quy định của Nhà nước về công tác tổ chức, cán bộ, bảo vệ an ninh chính trị nội bộ; phương châm, nguyên tắc bảo vệ an ninh chính trị nội bộ là “chủ động phòng ngừa, giữ vững bên trong là chính”, “tự bảo vệ mình là chính”. Chỉ đạo triển khai thực hiện các giải pháp bảo vệ chặt chẽ an ninh chính trị nội bộ, vô hiệu hoá hoạt động thâm nhập, tác động chuyển hoá nội bộ, thay đổi chế độ chính trị ở Việt Nam của các thế lực thù địch và bọn phản động. Tăng cường bảo vệ bí mật nhà nước, tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức cũng như ý thức trách nhiệm của các ngành, các cấp và của mọi công dân đối với công tác này; coi đây là nhiệm vụ chính trị thường xuyên của cơ quan, tổ chức, trong đó phải gắn với trách nhiệm của người đứng đầu.

Chủ động nắm tình hình, phát hiện sớm những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ cơ quan, đơn vị để giải quyết, xử lý kịp thời. Những biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên là vấn đề không thể xem thường, bởi vì suy thoái về đạo đức, lối sống là tiền đề của sự suy thoái về tư tưởng chính trị. Vì vậy, cần tập trung phát hiện những cán bộ, đảng viên mơ hồ về lập trường chính trị, có quan điểm sai trái, không tin vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; có lối sống thực dụng, phẩm chất đạo đức không lành mạnh, quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, xa rời nhân dân để đấu tranh, xử lý theo các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

- Thực hiện tốt chính sách đại đoàn kết, chính sách tôn giáo, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước nhằm tăng cường khối đoàn kết dân tộc, làm thất bại âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc để chống phá. Đẩy mạnh phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc với nhiều nội dung, hình thức phong phú, đa dạng, hiệu quả, khơi dậy sức mạnh, tiềm lực to lớn của nhân dân trong đấu tranh phòng, chống “diễn biến hoà bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, góp phần quan trọng vào sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

- Đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, góp phần giải quyết những vấn đề mới đặt ra và làm rõ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nâng cao tính chiến đấu, tính thuyết phục trong hoạt động lý luận, tuyên truyền, đấu tranh kịp thời và có hiệu quả với các luận điểm phản tuyên truyền của các thế lực thù địch và bọn phản động. Nghiên cứu đưa nội dung đấu tranh phòng, chống “diễn biến hoà bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” vào chương trình, nội dung các bài giảng trong các trường đảng, trường chính trị.

- Tiếp tục chỉ đạo triển khai thực hiện Kết luận Hội nghị Trung ương 5 (khoá XI) về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; kiểm điểm, đánh giá thực trạng tình hình và kết quả công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí thời gian qua tại các bộ, ban, ngành, địa phương; kiểm điểm trách nhiệm của tập thể, cá nhân trong công tác lãnh đạo,
chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng, lãng phí, từ đó đề ra các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác này.

Tiếp tục chỉ đạo triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI) Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay, tạo được sự chuyển biến rõ rệt, khắc phục được những hạn chế, yếu kém trong công tác xây dựng Đảng, nhằm xây dựng Đảng ta thật sự là đảng cách mạng chân chính, ngày càng trong sạch, vững mạnh, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin trong Đảng và nhân dân, động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, quyết tâm thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Đại tướng GS.TS. TRẦN ĐẠI QUANG

Ủy viên Bộ Chính trị - Bộ trưởng Bộ Công an

Trích trong sách: Phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong công tác cán bộ đảng viên hiện nay,

Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2012.

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 257.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2012, tr. 37.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Các nghị quyết của Trung ương Đảng 2005 - 2010, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2012, tr. 122.

4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 5, tr. 292.


 

 

Bình luận