Ngọn nguồn sức mạnh của Đảng là gắn bó máu thịt với Nhân dân

Ngày đăng: 01/05/2020 - 09:05

Một trong những bài học sâu sắc, xuyên suốt trong 90 năm xây dựng và phát triển của Ðảng đã chỉ ra rằng, ngọn nguồn sức mạnh góp phần làm nên thắng lợi của đất nước ta qua các thời kỳ cách mạng cũng như trong công cuộc đổi mới hiện nay chính là Ðảng biết dựa vào dân, lấy dân làm gốc, gắn bó máu thịt với Nhân dân, chăm lo đáp ứng các lợi ích thiết thân của Nhân dân, thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện để ngày càng phát huy tốt hơn tiềm năng to lớn của Nhân dân. Ðây là bài học có ý nghĩa thực tiễn quan trọng, là vấn đề căn bản mà công tác xây dựng Ðảng cần quan tâm, chú trọng.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã chỉ rõ: “Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng”1. Đại hội XII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh, cần phải “tăng cường mối quan hệ mật thiết với nhân dân”2. “... quan hệ giữa Đảng với quần chúng bao giờ cũng là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với Đảng ta và cách mạng nước ta”3

Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô, Đảng Cộng sản các nước Đông Âu, Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng nhắc nhở chúng ta rằng, nguy cơ lớn nhất của một chính đảng mácxít chính là sự xa rời quần chúng nhân dân. Lòng dân quyết định vận mệnh của Đảng. Tiền đồ và vận mệnh của một chính quyền hay một chính đảng cầm quyền đều được quyết định bởi lòng dân, nếu không giành được sự tin tưởng và ủng hộ của quần chúng, chắc chắn sẽ phải rời khỏi vũ đài lịch sử. 

Từ khi ra đời cho đến khi giành được chính quyền, Đảng ta đã phát huy những kinh nghiệm trong việc giữ mối liên hệ mật thiết với quần chúng nhân dân trong thời kỳ kháng chiến chống giặc ngoại xâm vào sự nghiệp xây dựng đất nước; khắc phục những yếu kém chủ quan, nóng vội, giáo điều… trong thời bao cấp. Đặc biệt, bước vào công cuộc đổi mới, Đảng chủ trương tăng cường gắn bó với Nhân dân, lắng nghe, tiếp thu ý kiến của Nhân dân, động viên sức mạnh tổng hợp của Nhân dân, góp phần làm nên những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, từng bước thay đổi cơ bản diện mạo của đất nước về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Những kết quả đó khẳng định năng lực mới của Đảng ta trong các hoạt động tăng cường gắn bó, khơi dậy và phát huy tiềm năng, sức sáng tạo to lớn của Nhân dân trong thời kỳ đổi mới. Các chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ngày càng phù hợp với tâm tư, nguyện vọng của Nhân dân. Cùng với đó, các cấp ủy đảng đã tăng cường công tác vận động quần chúng, kiện toàn củng cố đội ngũ cán bộ, từng bước nâng cao chất lượng hoạt động của ban dân vận các cấp. Quan hệ phối hợp công tác vận động quần chúng của hệ thống chính trị có bước tiến bộ.

Song, bên cạnh những kết quả đạt được, hiện nay, Đảng phải đối mặt với nhiều vấn đề mới đặt ra. Kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng ta cho thấy, mối quan hệ giữa Đảng với Nhân dân đang bộc lộ một số hạn chế, yếu kém:

- Xu hướng xa rời thực tiễn và xa rời quần chúng của các tổ chức đảng, đảng viên ngày càng bộc lộ rõ so với trước đây, dẫn đến mối quan hệ giữa Đảng với dân và lòng tin của dân đối với Đảng có dấu hiệu suy giảm. Cá biệt ở một số địa phương, quan hệ giữa tổ chức đảng, chính quyền với Nhân dân còn mâu thuẫn, căng thẳng (Tiên Lãng - Hải Phòng, Văn Giang - Hưng Yên, Đồng Tâm - Hà Nội...), ảnh hưởng tới ổn định xã hội, làm giảm sút hình tượng của Đảng trong lòng dân. Tình trạng quan liêu, cửa quyền, tham nhũng, lãng phí của một bộ phận đảng viên, cán bộ, công chức nhà nước chưa được khắc phục triệt để, kỷ cương phép nước bị xem thường, thậm chí còn xuất hiện những hành vi lợi dụng dân chủ để phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc mối quan hệ giữa Đảng với dân. 

- Một số chính sách của Đảng và Nhà nước chưa thật sự phù hợp với nguyện vọng của Nhân dân, chưa bảo đảm lợi ích của Nhân dân. Nhiều vấn đề bức xúc của Nhân dân không được giải quyết kịp thời, thỏa đáng, đặc biệt là trong lĩnh vực đất đai, đầu tư, thủ tục hành chính, v.v..

- Phương thức tổ chức, hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân các cấp có biểu hiện quan liêu, hành chính hóa, chậm đổi mới; vai trò, trách nhiệm tham mưu, hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra của một số Ban dân vận cấp ủy chưa cao; sự phối hợp giữa các ban, ngành, đoàn thể chưa thật sự chặt chẽ.

- Tính chiến đấu, tính tiền phong, gương mẫu của một bộ phận tổ chức cơ sở đảng và đảng viên giảm sút rõ rệt. Cơ chế Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý - Nhân dân làm chủ chưa được cụ thể hóa đầy đủ và thống nhất thành một hệ thống thể chế vận hành thích hợp bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân.

Nguyên nhân của tình trạng này là do trách nhiệm của Đảng trước Nhân dân ngày càng lớn, yêu cầu đòi hỏi của quần chúng nhân dân đối với Đảng ngày càng cao. Về khách quan, có thể thấy, một bộ phận đảng viên nắm trong tay quyền lực nhất định đang điều hành và quản lý xã hội, có thể điều động nhân lực, vật lực và tài sản xã hội, quyền lực đó là vô cùng lớn nếu như so sánh với thời kỳ trước đây. Điều đó dễ khiến quần chúng hiểu lầm các cán bộ, đảng viên vốn là công bộc của dân, lại trở thành những ông “quan cách mạng” hạch sách dân. Về chủ quan, thực tế tồn tại một bộ phận cán bộ, đảng viên có chức, có quyền sa vào chủ nghĩa cá nhân, phai nhạt lý tưởng, suy thoái về đạo đức, lối sống, “đục khoét”, ăn bớt của dân.

Hiện nay, hơn lúc nào hết, giữ gìn mối quan hệ máu thịt với Nhân dân là vấn đề có ý nghĩa sống còn của Đảng ta và cách mạng nước ta, là sự bảo đảm cơ bản cho Đảng chiến thắng mọi khó khăn, vượt qua mọi nguy cơ, đi tới thắng lợi. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cấu trúc giai tầng xã hội Việt Nam đã và đang tiếp tục phát sinh những biến đổi, cấu thành nên các giai tầng mới trong xã hội khá phức tạp, khuynh hướng chính trị cũng không hoàn toàn tương đồng, mối liên hệ giữa Đảng với bộ phận này tồn tại không ít khâu yếu. Không ngừng giải quyết các vấn đề mới nảy sinh đã trở thành động lực quan trọng trong việc tăng cường mối liên hệ mật thiết máu thịt giữa Đảng với Nhân dân. 

Trong tình hình mới, nhằm tăng cường sức mạnh của Đảng trên cơ sở khoan thư bồi dưỡng sức dân, bên cạnh việc hoàn thiện cơ chế vận hành của hệ thống chính trị, tăng cường lãnh đạo xây dựng Nhà nước “của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”, cần tập trung giải quyết một số vấn đề chủ yếu sau:

Một là, thực hành dân chủ, đề cao và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân

Luôn ý thức dân là chủ, dân làm chủ, tạo điều kiện thuận lợi giúp Nhân dân phát huy quyền làm chủ là yêu cầu cơ bản để Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân. Từng bước xây dựng và tiếp tục hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân; mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của Nhân dân. Trước hết, Đảng lãnh đạo, chỉ đạo Nhà nước và các cơ quan chức năng xây dựng các thiết chế, thể chế bảo đảm để Nhân dân thực hiện quyền dân chủ trực tiếp, gián tiếp trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; từng bước thực hiện quyền tổ chức quản lý đời sống cộng đồng theo quy định của pháp luật. Hoàn thiện cơ chế mở rộng, phát huy dân chủ, bảo đảm các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đều có sự tham gia xây dựng của Nhân dân, phản ánh đúng nguyện vọng và lợi ích chính đáng của Nhân dân, phù hợp với lợi ích quốc gia dân tộc. Hoàn thiện cơ chế để Nhân dân đóng góp ý kiến, phản biện xã hội và giám sát công việc của Đảng, Nhà nước, nhất là trong việc thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội, các quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển quan trọng; đồng thời, giám sát hoạt động của các tổ chức đảng, chính quyền, cán bộ, đảng viên.

Bên cạnh đó, Đảng cần chú trọng lãnh đạo thực hiện Quy chế công tác dân vận trong hệ thống chính trị, phát huy vai trò làm chủ của quần chúng nhân dân trong các công việc hằng ngày tại địa phương, thực hiện tốt phương châm: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; chỉ đạo xây dựng cơ chế cung cấp thông tin và trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước trước Nhân dân; cơ chế cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ cơ quan dân cử tiếp xúc, đối thoại với Nhân dân, tiếp thu, giải quyết yêu cầu, khiếu nại của Nhân dân; thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; đề cao trách nhiệm công dân, kỷ luật, kỷ cương xã hội; phê phán và xử lý nghiêm những hành vi vi phạm quyền làm chủ của Nhân dân, những hành vi lợi dụng dân chủ để làm mất an ninh, trật tự, an toàn xã hội; chống tập trung quan liêu, khắc phục tình trạng dân chủ hình thức. 

 Hai là, tập trung khắc phục, thu hẹp khoảng cách giàu - nghèo, giải quyết vấn đề việc làm và nạn thất nghiệp 

Thu hẹp khoảng cách giàu -  nghèo có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc thúc đẩy công bằng xã hội, bảo vệ trật tự trị an và tăng cường sự đoàn kết cộng đồng. Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đến nay, Đảng luôn tạo điều kiện để người dân được làm giàu chính đáng, từng bước thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, tạo nên sự thay đổi sâu sắc trong tư tưởng, quan niệm của mỗi người cũng như diện mạo của toàn xã hội, từ đó cải thiện, nâng cao chất lượng đời sống vật chất của Nhân dân.

 Song, trong hơn 30 năm đổi mới, tình hình phân phối thu nhập khác nhau đã làm xuất hiện khoảng cách rõ rệt giữa thành thị với nông thôn, giữa các địa phương, giữa các ngành, nghềgiữa các cá nhân với nhau. Đặc biệt, tình hình đó đang ngày càng có xu hướng gia tăng. Trên thực tế, khoảng cách chênh lệch giàu - nghèo và bất bình đẳng không chỉ là vấn đề lợi ích thiết thân hay vấn đề kinh tế mà còn là vấn đề liên quan đến chính trị. Vì vậy, Đảng và Nhà nước cần sử dụng các biện pháp điều tiết phân phối thu nhập xã hội, bảo đảm phúc lợi xã hội, an sinh xã hội một cách hiệu quả thông qua công cụ thuế và các công cụ khác; tiếp tục sửa đổi, hoàn thiện hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, trợ giúp và cứu trợ xã hội đa dạng, linh hoạt, có khả năng bảo vệ, giúp đỡ mọi thành viên trong xã hội, nhất là các nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương vượt qua khó khăn hoặc các rủi ro trong đời sống; tập trung triển khai có hiệu quả các chương trình xóa đói, giảm nghèo ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn; đa dạng hóa các nguồn lực và phương thức xóa đói, giảm nghèo gắn với phát triển nông nghiệp, nông thôn, phát triển giáo dục, dạy nghề và giải quyết việc làm.

Với việc điều chỉnh chiến lược kinh tế - xã hội từ khi đổi mới và hội nhập đến nay, số lượng công nhân, viên chức dôi dư trong các doanh nghiệp bị giải thể, cùng với số lượng người thất nghiệp mất việc làm ngày càng gia tăng mạnh mẽ. Tình trạng thiếu việc làm còn phổ biến, chính sách tiền lương chưa động viên được cán bộ, công chức, người lao động; một bộ phận không nhỏ nông dân trong lúc nông nhàn cũng có nhu cầu tìm việc làm. Có thể thấy, mâu thuẫn cung - cầu lao động hiện nay đang ngày càng gay gắt, muốn giải quyết cần phải có một quá trình lâu dài. Trước hết, Đảng, Nhà nước cần kiên quyết khắc phục kịp thời sự bất hợp lý về chế độ tiền lương, tiền công, trợ cấp xã hội cho phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của đất nước; gắn cải cách tiền lương với sắp xếp, kiện toàn và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức của hệ thống chính trịvới hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.

Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Tạo cơ hội để mọi người có việc làm và cải thiện thu nhập. Bảo đảm tiền lương, thu nhập công bằng, đủ điều kiện sống và tái sản xuất sức lao động... Chú trọng giải quyết việc làm cho lao động dôi dư từ khu vực nông nghiệp do việc tích tụ, tập trung ruộng đất hoặc thu hồi đất phát triển công nghiệp, đô thị và các công trình công cộng. Khuyến khích đầu tư xã hội tạo ra nhiều việc làm, nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách về tiền lương, tiền công, khắc phục cơ bản những bất hợp lý. Điều chỉnh chính sách dạy nghề, gắn đào tạo với sử dụng”4.

Ba là, tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, kiên quyết ngăn chặn và đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; phòng, chống các tệ nạn quan liêu, tham nhũng trong Đảng

Để tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, Đảng cần tập trung giải quyết những vấn đề cơ bản và cấp bách: 

Thứ nhất, Đảng phải giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh làm trong sạch Đảng và chống quan liêu, tham nhũng. Trong thời gian qua, mặc dù công tác đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên đã đạt được nhiều thành tựu rõ rệt, song hiện nay, trong công cuộc đổi mới đất nước và đẩy mạnh hội nhập quốc tế sâu rộng, tệ quan liêu, tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, tình trạng lạm quyền, tư lợi trong Đảng vẫn đang diễn biến hết sức phức tạp, đang trở thành những "căn bệnh trọng", gây tổn hại tới uy tín của Đảng, Nhà nước, làm xói mòn niềm tin của Nhân dân. Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư khóa XI của Đảng chỉ rõ: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc…”5. Hội nghị Trung ương 4 khóa XII bổ sung nhận định: “Nhiều cán bộ, đảng viên, trong đó có người đứng đầu chưa thể hiện tính tiên phong, gương mẫu; còn biểu hiện quan liêu, cửa quyền, chưa thực sự sâu sát thực tế, cơ sở. Công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng chưa đủ sức răn đe, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái… Tự phê bình và phê bình nhiều nơi mang tính hình thức; vẫn còn tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm; một số cán bộ, đảng viên thiếu tự giác nhận khuyết điểm và trách nhiệm của mình trong công việc được giao... Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước... sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc”6

Tình hình đó, nếu chậm được khắc phục, sẽ làm suy giảm lòng tin của Nhân dân đối với Đảng, là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ. Để chiến thắng những căn bệnh này, có nhiều việc phải làm, nhưng trước hết mỗi cán bộ, đảng viên cần phải tự suy nghĩ, tự phê bình và làm theo những lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Theo Người, xét đến cùng, sự thoái hóa, biến chất trong cán bộ, đảng viên, đều do chủ nghĩa cá nhân, xa rời thực tiễn cuộc sống, xa dân, mất dân chủ mà ra. “Quan liêu là không dân chủ”7. “… muốn trừ sạch nạn tham ô, lãng phí, thì trước mắt phải tẩy sạch bệnh quan liêu”8. Người cũng chỉ rõ nguyên nhân của căn bệnh quan liêu là do xa Nhân dân, khinh Nhân dân, sợ Nhân dân, không tin cậy Nhân dân, không hiểu biết Nhân dân và không yêu thương Nhân dân. 

Bệnh quan liêu mệnh lệnh chỉ đưa đến một kết quả là: hỏng việc. “Cách chữa bệnh ấy gồm có một nguyên tắc là: Theo đúng đường lối nhân dân và 6 điều gồm:

Đặt lợi ích nhân dân lên trên hết; Liên hệ chặt chẽ với nhân dân; Việc gì cũng bàn với nhân dân, giải thích cho nhân dân hiểu rõ; Có khuyết điểm thì thật thà tự phê bình trước nhân dân, và hoan nghênh nhân dân phê bình mình; Sẵn sàng học hỏi nhân dân; Tự mình phải làm gương mẫu cần kiệm liêm chính để nhân dân noi theo”9

Lấy tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động, trong bất kỳ tình huống nào, Đảng cũng luôn đặt lợi ích của quần chúng nhân dân lên trên hết, trước hết; mọi chủ trương, đường lối đều phải xuất phát từ lợi ích thiết thân của quần chúngthể hiện ý chí của Nhân dân. Chỉ bằng cách đó, Đảng mới giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh làm trong sạch Đảng và chống quan liêu, tham nhũng. 

Thứ hai, Đảng phải bảo đảm điều hòa những lợi ích thiết thân giữa các giai tầng xã hội, xử lý thỏa đáng và kịp thời các mâu thuẫn nảy sinh trong nội bộ Nhân dân. Trong điều kiện lịch sử mới, cơ cấu lợi ích xã hội và mâu thuẫn lợi ích trong nội bộ các tầng lớp nhân dân liên tục phát sinh, biến đổingày càng trở nên phức tạp, chủ yếu biểu hiện dưới dạng: mâu thuẫn giữa Nhà nước, tập thể và cá nhân; giữa người lãnh đạo, quản lý với quần chúng nhân dân; giữa chủ thể kinh doanh với cơ quan và nhân viên nhà nước; giữa các ngành, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau; giữa người có việc làm với người không có việc làm… Để giải quyết được những mâu thuẫn trong nội bộ quần chúng nhân dân hiện nay, về nguyên tắc, phải coi lợi ích quốc gia là tối cao, đồng thời phải xử lý thỏa đáng mối quan hệ giữa lợi ích quốc gia với lợi ích tập thể cục bộ, thậm chí cả lợi ích cá nhân. Nếu xử lý thích đáng thì có thể hóa giải mâu thuẫn, ổn định quần chúng, thúc đẩy sự nghiệp tiếp tục phát triển, từ đó nâng cao uy tín của Đảng. Ngược lại, nếu không giải quyết đúng đắn sẽ kích thích mâu thuẫn, thậm chí tạo thành những mâu thuẫn mới hoặc tạo ra các nhân tố gây bất ổn định xã hội, ảnh hưởng tiêu cực đến công cuộc đổi mới. Các cấp ủy đảng, đặc biệt là cấp quận, huyện, xã, phường phải đặc biệt quan tâm giải quyết các vấn đề gây bức xúc nảy sinh trong xã hội; xây dựng, củng cố và kiện toàn cơ chế hóa giải mâu thuẫn. Những vấn đề quần chúng nhân dân phản ánh đều phải được xử lý và hồi âm kịp thời. Lãnh đạo các cấp phải đáp ứng được nguyện vọng của Nhân dân, phát triển hơn nữa mối liên hệ máu thịt giữa Đảng với quần chúng nhân dân, nâng cao ảnh hưởng cũng như sức hiệu triệu của Đảng đối với quần chúng. Chỉ khi Đảng là đại biểu chân chính cho lợi ích của Nhân dân, gắn bó máu thịt với Nhân dân thì Đảng mới xứng đáng là đội tiền phong về trí tuệ và sức mạnh của giai cấp công nhân, Nhân dân lao động và của toàn dân tộc.

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 65.

2.  Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 63, tr. 136.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, t. 50, tr. 26.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2012, tr. 22.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 22-23.

7. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 10, tr. 583.

8, 9.  Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 357, 177.

TS. LÊ MINH NGHĨA

Hội đồng Lý luận Trung ương

 
Bình luận

Bài viết liên quan | Xem tất cả