Phát huy dân chủ trong Đảng dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội XI

Ngày đăng: 12/02/2015 - 07:02

Phathuydanchutrongdang

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) được thông qua tại Đại hội Đảng lần thứ XI ghi rõ: "Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật"1. Để đảm đương được vai trò lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, Đảng phải mạng về chính trị, tư tưởng và tổ chức, phải giữ vững truyền thống đoàn kết, thường xuyên thực hiện tự phê bình và phê bình, luôn xây dựng và tự chỉnh đốn, đồng thời, Đảng phải là tấm gương thực hành dân chủ... Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Để làm cho Đảng mạnh, thì phải mở rộng dân chủ"2 , trong Đảng "phải thật sự mở rộng dân chủ để tất cả đảng viên bày tỏ hết ý kiến của mình"3. Mặt khác, mỗi đảng viên bất cứ ở địa vị nào cũng phải làm gương trong việc thực hiện dân chủ.

1. Vấn đề thực hiện dân chủ trong Đảng

Dân chủ trong Đảng là bài học kinh nghiệm thành công và truyền thống quý báu của Đảng ta. Trong thời kỳ lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền và kháng chiến chống xâm lược, phải hoạt động trong hoản cảnh hết sức khó khăn, Đảng đã động viên tinh thần trách nhiệm, tính chủ động, sáng tạo của mỗi đảng viên từ Trung ương đến cơ sở để tổ chức, lãnh đạo quần chúng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng. Ngoài lợi ích dân tộc, lợi ích giai cấp, hầu như không ai nghĩ đến lợi ích cá nhân. Cán bộ, đảng viên đều một lòng, một dạ phục vụ tổ quốc, phục vụ nhân dân nên quan hệ trong Đảng là bình đẳng, đoàn kết, thống nhất. Đó chính là cơ sở để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế, tạo nên những thắng lợi to lớn của cách mạng Việt Nam.

Là một Đảng cầm quyền, trong điều kiện xây dựng đất nước hòa bình, nhiều tổ chức cơ sở đảng và đảng viên đảm nhiệm những cương vị lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị, trong các lĩnh vực hoạt động của bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, "năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của không ít tổ chức còn thấp; công tác quản  đảng viên chưa chặt chẽ, sinh hoạt đảng chưa nền nếp, nội dung sinh hoạt nghèo nàn, tự phê bình và phê bình yếu"4. Những hạn chế này cùng với sự tác động tiêu cực của mặt trái cơ chế thị trường, giao lưu, hội nhập quốc tế, âm mưu "diễn biến hòa bình" của kẻ địch đã ảnh hưởng không nhỏ tới tư tưởng, đạo đức, lối sống của cán bộ đảng viên, làm cho "một bộ phận không nhỏ  cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc...5. Đồng thời, không ít đảng viên thiếu trách nhiệm, không tích cực tham gia vào việc xây dựng và tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng. Tình trạng  trên dẫn đến chất lượng sinh hoạt thấp, không huy động được trí tuệ của tập thể tổ chức đảng; tính khả thi của nghị quyết không cao, thậm chí có nghị quyết phạm sai lầm; đảng viên không tham gia bàn việc, không thấu suốt và cũng không tích cực lãnh đạo thực hiện thắng lợi nghị quyết. Việc lãnh đạo thực hiện đường lối, nghị quyết của Đảng còn nặng nề về “chỉ thị”, kế hoạch từ trên ấn định xuống. Trong khi đó, có những chỉ thị, kế hoạch thiếu điều tra cụ thể, nghiên cứu kỹ; không có sự tham gia ý kiến của tổ chức đảng và đảng viên từ cơ sở, nên không sát hợp với tình hình  và yêu cầu thực tế. Do đó, tính tích cực chủ động của tổ chức đảng và đảng viên không được phát huy trong hoạt động thực tiễn.

Đối với vấn đề dân chủ trong Đảng thời kỳ đổi mới, Đảng ta từng nhận định: Dân chủ trong Đảng còn hạn chế, kỷ luật không nghiêm, một số nơi mất đoàn kết nghiêm trọng… Không ít cấp ủy và tổ chức đảng thiếu tôn trọng và phát huy quyền của đảng viên, ít lắng nghe ý kiến cấp dưới. Không ít cán bộ lãnh đạo chưa quen với những thông tin ngược chiều, không thích nghe ý kiến khác với ý kiến của mình. Còn thiếu những cơ chế cụ thể có hiệu lực bảo đảm phát huy dân chủ, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung trong Đảng. Có những quy định trong Điều lệ Đảng, trong các quy chế làm việc của Ban Chấp hành Trung ương và các cấp ủy không được chấp hành nghiêm túc. Hiện tượng cán bộ lãnh đạo độc đoán, mệnh lệnh, trù dập, ức hiếp quần chúng còn xảy ra ở một số nơi, có khi rất trắng trợn. Trong khi tình trạng mất dân chủ hoặc dân chủ hình thức còn nặng thì những biểu hiện dân chủ cực đoan, tự do vô kỷ luật cũng không ít7

Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã nhận định: “Nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” trên thực tế ở nhiều nơi rơi vào hình thức do không xác định rõ cơ chế trách nhiệm, mối quan hệ giữa tập thể và cá nhân; khi sai sót, khuyết điểm không ai chịu trách nhiệm. Do vậy, vừa có hiện tượng dựa dẫm vào tập thể, không rõ trách nhiệm cá nhân, vừa không khuyến khích người đứng đầu có nhiệt tình, tâm huyết, dám nghĩ, dám làm; tạo kẽ hỡ cho cách làm việc tắc trách, trì trệ, hoặc lạm dụng quyền lực một cách tinh vi để mưu cầu lợi ích cá nhân8.

Nhiều tổ chức đảng  có hiện tượng cấp ủy và tổ chức cấp dưới không dám phê bình thẳng thắn cấp ủy cấp trên, nhất là người đứng đầu. Trong sinh hoạt đảng, vì những lý do khác, nhiều đảng viên không dám nói chính kiến của mình, ngại đấu tranh, phê bình khuyết điểm của cán bộ đảng, chính quyền cấp trên và cả đồng chí của mình, né trách các vấn đề phức tạp. Tình trạng thiếu dân chủ thường đi đôi với hiện tượng quan liêu độc đoán, chuyên quyền. Những vụ việc tham nhũng lớn hầu như không do tổ chức đảng và đảng viên cấp dưới, quần chúng hoặc cơ quan báo chí, cơ quan pháp luật phát hiện. Điều đó cho thấy sự yếu kém về sức chiến đấu của tổ chức đảng và đảng viên.

2. Những nội dung cơ bản của việc phát huy dân chủ  trong Đảng

Từ lý luận và thực tiễn trong công tác xây dựng đảng, cũng như tình hình dân chủ trong Đảng thời gian qua có thể thấy, phát huy dân chủ trong tổ chức và sinh hoạt đảng là yêu cầu cấp bách để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Nội dung cơ bản về phát huy dân chủ trong Đảng hiện nay là:

Thứ nhất, dân chủ trong xây dựng đường lối, chủ trương của Đảng

Đường lối, chủ trương đúng là nhân tố cơ bản bảo đảm cho cách mạng thắng lợi và cũng là yêu cầu quan trọng nhất trong công tác lãnh đạo của Đảng. Do vậy, muốn có đường lối, chủ trương đúng đắn, Đảng phải huy động được trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, mọi đường lối, chủ trương  của Đảng được chuẩn bị theo quy trình chặt chẽ, được các tổ chức đảng và đông đảo đảng viên tham gia đóng góp ý kiến, công khai tranh thủ ý kiến của quần chúng, sau đó mới chính thức trở thành nghị quyết của Đảng. Thực tiễn cho thấy, trong quá trình thực hiện đường lối chủ trương của Đảng đã có nhiều tổ chức đảng và đảng viên ở cơ sở sáng tạo ra những cách làm mới có hiệu quả, khắc phục khó khăn, đưa cách mạng tiến lên. Trung ương Đảng đã tôn trọng, tiếp thu những sáng kiến đó, hoàn thiện thành đường lối, chủ trương chung. Nhờ vậy, từ khi ra đời đến nay, Đảng luôn có đường lối cách mạng đúng đắn; những sai lầm, khuyết điểm được nhanh chóng phát hiện và sửa chữa.

Hiện nay, nươc ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn đặt ra cần được nghiên cứu làm sáng tỏ, như: Đảng cầm quyền, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với dân chủ hóa xã hội; xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa… Tình hình đó đặt ra yêu cầu phải phải phát huy dân chủ, phát huy tinh thần trách nhiệm, năng lực tư duy của toàn Đảng vào việc xây dựng đường lối, chủ trương lãnh đạo thực hiện tốt mọi nhiệm vụ.

Thứ hai, phát huy tinh thần trách nhiệm, trí tuệ của mọi tổ chức đảng và đảng viên trong lãnh đạo thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng

Dân chủ không chỉ là quyền mà còn là trách nhiệm của mỗi đảng viên. Lực lượng lãnh đạo thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương của Đảng là các tổ chức đảng các cấp từ Trung ương đến cơ sơ cùng toàn thể đảng viên. Nhiệm vụ lãnh đạo này vô cùng phong phú, phức tạp, bởi cuộc sống xã hội muôn màu, muôn vẻ. Không thể có một khuôn mẫu, một giải pháp duy nhất nào cho mọi lĩnh vực mọi lúc mọi nơi. Do đó, phát huy dân chủ chính là để huy động được trí lực, nhân lực của toàn Đảng, toàn dân trong việc xây dựng và thực hiện hóa đường lối, chủ trương của Đảng.

Chúng ta cần nghiêm túc tổng kết và vận dụng những bài học lịch sử về phát huy tinh thần trách nhiệm, nâng cao trình độ trí tuệ của cán bộ, đảng viên trong hoạt động thực tiễn của các thời kỳ cách mạng trước đây vào tình hình hiện nay. Mỗi tổ chức đảng, cấp ủy và đảng viên, bất kể ở cương vị nào đều phải phát huy tinh thần trách nhiệm, nâng cao trí tuệ, quán triệt sâu sắc quan điểm, tư tưởng, đường lối, chủ trương của Đảng, đồng thời chủ động sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, thực sự là tấm gương sáng trong việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị  mà Đảng giao ở mỗi địa phương, đơn vị, từng ngành cũng như cả nước. Mỗi tổ chức đảng, mỗi cấp ủy và từng đảng viên phải đặt phải đặt nội dung nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, phát huy dân chủ, giữ nghiêm kỷ luật, gắn bó với quần chúng, kiên quyết chống quan liêu, tham nhũng trong nội bộ Đảng, hệ thống chính trị và trong xã hội thành mục tiêu hoạt động lãnh đạo của mình.

Một nhiệm vụ hết sức cấp bách hiện nay là Đảng phải nâng cao tầm trí tuệ, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo cách mạng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Nếu không thường xuyên học tập nâng cao trình độ sẽ trở nên lạc hậu trước sự phát triển của khoa học - công nghệ, Đảng sẽ không thể làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình.

Thứ ba, dân chủ trong sinh hoạt đảng

Sinh hoạt đảng là một hoạt động thường xuyên, quan trọng của Đảng. Mọi đường lối, chủ trương, tổ chức thực hiện, tổng kết rút ra kinh nghiệm lãnh đạo cách mạng, xây dựng đảng, đấu tranh với các thế lực thù địch… đều từ trong sinh hoạt đảng. Sinh hoạt dân chủ, chất lượng cao sẽ làm cho Đảng mạnh. Trong Đảng, mỗi đảng viên ở bất kỳ cương vị nào đều bình đẳng, không có đảng viên cấp trên, đảng viên cấp dưới. Vì vậy, dân chủ trong sinh hoạt đảng là điều tất yếu và có ý nghĩa quyết định khi thực hiện nguyên tắc dân chủ trong toàn bộ hoạt động của Đảng. Kế thừa và phát huy truyền thống dân chủ nội bộ trước yêu cầu mới, Điều lệ của Đảng được các đại hội thông qua đều quy định cụ thể nguyên tắc tập trung dân chủ cùng với những nội dung cơ bản của nguyên tắc đó. Đảng cũng có những quy chế, quy định… về tổ chức và sinh hoạt của mình. Phát huy dân chủ trong sinh hoạt đảng ở tất cả các cấp là một nội dung quan trọng để phát huy dân chủ trong Đảng, làm gương cho mọi sinh hoạt trong các tổ chức của hệ thống chính trị và trong mọi sinh hoạt xã hội.

Thứ tư, dân chủ trong công tác cán bộ

Thời kỳ đổi mới, công tác cán bộ đặt ra cho chúng ta những nhiệm vụ mới mẻ, phức tạp, khó khăn. Mặc dù các đại hội toàn quốc của Đảng đều đề ra chủ trương giải pháp phát huy dân chủ trong công tác cán bộ; nhiều hội nghị Trung ương ra nghị quyết chuyên đề về công tác cán bộ, đề cập nhiều đến nội dung về phát huy dân chủ trong công tác cán bộ, nhưng nhìn chung, vẫn còn thiếu những cơ chế, chính sách phát huy dân chủ thật sự trong việc đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ cán bộ. Dân chủ hóa công tác cán bộ còn chậm. Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI có nhận định: “Đội ngũ cán bộ cấp Trung ương, cấp chiến lược rất quan trọng, nhưng chưa được xây dựng một cách cơ bản. Công tác quy hoạch cán bộ mới tập trung thực hiện ở địa phương, chưa thực hiện ở cấp Trung ương, dẫn đến sự hẫng hụt, chắp vá, không đồng bộ và thiếu chủ động trong công tác bố trí, phân công cán bộ. Một số trường hợp đánh giá, bố trí cán chưa thật công tâm, khách quan, không vì yêu cầu công việc, bố trí không đúng sở trường, năng lực ảnh hưởng đến uy tín cơ quan lãnh đạo, sự phát triển của ngành, địa phương và cả nước8.                                                     

Để phát huy dân chủ trong công tác cán bộ, cần khẳng định nguyên tắc: Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ, không chỉ với cán bộ trong Đảng mà với đội ngũ cán bộ nói chung. Đảng quyết định chủ trương, chính sách, cơ chế quản lý đối với toàn bộ đội ngũ cán bộ. Việc lựa chọn cán bộ các cấp trong Đảng cần thực hiện dân chủ để chọn được những đảng viên thực sự có phẩm chất chính trị, đạo đức, có năng lực lãnh đạo, được tập thể đảng viên và quần chúng tín nhiệm. Đổi mới và hoàn thiện chế độ bầu cử. Trong lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý cán bộ phải có sự phân công phân cấp hợp lý, bảo đảm mọi quyết định về cán bộ đều có sự chỉ đạo của tổ chức đảng có thẩm quyền. Trong công tác cán bộ, tổ chức đảng thực hiện theo nguyên tắc tập trung dựa trên sự tín nhiệm của tập thể, đồng thời phát huy trách nhiệm, tôn trọng quyền hạn và ý kiến của người đứng đầu cơ quan.

Trong công tác cán bộ cần chú ý chống những biểu hiện dân chủ hình thức, cá nhân cục bộ, quan liêu, độc đoán, không xuất phát từ lợi ích chung, thành kiến hẹp hòi, thiếu công tâm hoặc nể nang, tùy tiện, thiếu trách nhiệm với tổ chức và cán bộ, đảng viên.

3. Một số biện pháp nhằm phát huy dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Đảng

- Nâng cao nhận thức đúng đắn về dân chủ trong Đảng

Mỗi tổ chức đảng và đảng viên phải nhận thức đúng đắn thống nhất nội dung dân chủ trong Đảng. Dân chủ phải đi đôi với tập trung. Phát huy dân chủ phải đồng thời với chống hình thức dân chủ cực đoan, dân chủ vô chính phủ, không tuân theo kỷ cương phép nước. Nguyên tắc tập trung dân chủ phải được thực hiện theo đúng tinh thần của Điều lệ Đảng, đồng bộ với các nguyên tắc phê bình và tự phê bình, đoàn kết thống nhất trong Đảng. Cơ quan lãnh đạo phải nắm vững quyền chỉ đạo tập trung, điều hành thống nhất, lãnh đạo tập thể. Tăng cường sự lãnh đạo tập thể phải đi đôi với mở rộng dân chủ. Trong sinh hoạt đảng, mọi ý kiến khác nhau cần được thảo luận dân chủ, thẳng thắn. Ngoài việc nâng cao nhận thức, điều quyết định bảo đảm thực hiện dân chủ trong thực tế là phải có cơ chế đúng, có những quy định cụ thể và phải có tinh thần đấu tranh kiên quyết để thực hiện các quy chế, quy định đó. Mỗi cán bộ, đảng viên có quyền tham gia quyết định công việc của Đảng, được chất vấn, phê bình trong phạm vi tổ chức về hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên ở mọi cấp; quyền được thông tin, thảo luận, nêu ý kiến riêng, được bảo lưu ý kiến và trình bày ý kiến trong tổ chức đảng. Tuy nhiên, thiểu số phải phục tùng đa số, khi Đảng đã có nghị quyết thì mỗi đảng viên phải nói và làm theo nghị quyết. Trong Đảng, từ Trung ương đến cơ sở phải chấp hành nghiêm túc các quy định về chế độ báo cáo, chế độ tự phê bình và phê bình. Cán bộ, đảng viên được bầu chọn đảm nhiệm các chức vụ lãnh đạo phải chịu sự giám sát của tổ chức và đảng viên, phải báo cáo hoạt động trước tổ chức đã bầu ra mình, thường xuyên báo cáo tình hình của tổ chức và hoạt động của mình đến các tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên. Xây dựng quy trình, quy chế ra quyết định của Đảng, bảo đảm phát huy trí tuệ tập thể thông qua các đại hội, hội nghị toàn thể hoặc hội nghị đại biểu. Hoàn thiện quy chế bảo đảm quyền kiểm tra, giám sát của tập thể đối với cá nhân, của tổ chức với tổ chức, của cá nhân với cá nhân và tổ chức, xây dựng quy chế về bảo lưu ý kiến và xem xét ý  kiến bảo lưu.

- Tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đống Đảng

Tổng kết sự lãnh đạo trong quá trình đổi mới, Đảng ta khẳng định những thành tựu và yếu kém đều bắt nguồn từ công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Xây dựng phải đi đôi với chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng luôn trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức để đáp ứng yêu cầu lãnh đạo cách mạng trong mọi tình huống. Muốn thực hiện được điều này phải dựa trên việc phát huy, nâng cao tính dân chủ trong Đảng. Ngược lại, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạng cũng là điều kiện quan trọng hàng đầu để phát huy dân chủ trong Đảng.

Yêu cầu cơ bản của việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nâng cao bản lĩnh chính trị và năng lực lãnh đạo của Đảng, nâng cao trình độ kiến thức, đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên; khắc phục có hiệu quả tệ tham nhũng; tăng cường dân chủ và kỷ luật, củng cố khối đoàn kết đoàn kết thống nhất trong Đảng, khắc phục bệnh quan liêu, bao biện, xa rời, coi thường quần chúng, củng cố mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của Đảng, trước hết là là nguyên tắc tập trung dân chủ.

- Nâng cao chất lượng đảng viên

Đảng viên là lực lượng xây dựng đường lối, chủ trương của Đảng từ Trung ương đến cơ sở; là lực lượng trực tiếp động viên, tổ chức, hướng dẫn quần chúng thực hiện đường lối, chủ trương đó; là tấm gương để quần chúng noi theo. Do vậy, nâng cao chất lượng đảng viên là một nội dung cơ bản của xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Nâng cao chất lượng đảng viên còn là yêu cầu của việc xây dựng  và thực hiện dân chủ trong Đảng.

Đại hội của Đảng nhấn mạnh:"Đổi mới, tăng cường công tác quản lý, phát triển đảng viên, bảo đảm chất lượng đảng viên theo yêu cầu của Điều lệ Đảng. Xây dựng các tiêu chí, yêu cầu cụ thể về tư tưởng chính trị, trình độ năng lực, phầm chất đạo đức, lối sống của đảng viên đáp ứng yêu cầu giai đoạn cách mạng mới; phát huy tính tiền phong gương mẫu, chủ động, sáng tạo của đội ngũ đảng viên trong thực hiện nhiệm vụ được giao. Kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những người không đủ tư cách đảng viên"9. Thực tế cho thấy, những cơ sở đảng có chất lượng đảng viên kém thì cơ sở đảng đó yếu, không phát huy được dân chủ trong Đảng và trong quần chúng, phong trào mọi mặt sút kém.

Để nâng cao chất lượng đảng viên, ngoài việc quản lý giáo dục của tổ chức đảng, còn phải có sự tự phấn đấu, rèn luyện của đảng viên. Thực tế cho thấy, nhiều đảng viên khi chưa có chức, có quyền còn chú ý rèn luyện, phấn đấu trở thành cán bộ, đảng viên tốt, nhưng khi có chức, có quyền thì lơi lỏng tu dưỡng, mắc bệnh quan liêu, tham nhũng, cửa quyền, hạch sách cấp dưới và quần chúng nhân dân. Hiện tượng này cần được nhanh chóng khắc phục.

- Kiên quyết đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng trong Đảng cũng như trong toàn xã hội

Từ lý luận và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội mấy chục năm qua ở nước ta, Đảng ta nhận định: Hiện nay tệ quan liêu, tham nhũng đã trở thành quốc nạn, là nguy cơ, thách thức đối với sự sống còn của Đảng, của cách mạng nước ta. Đây là thủ phạm chính gây ra tình trạng mất dân chủ trong Đảng, gây bức xúc trong xã hội. Các tổ chức đảng và đảng viên phải đi đầu, nêu gương chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, chống đặc quyền, đặc lợi, hách dịch, cửa quyền. Phát huy dân chủ và chống quan liêu, tham nhũng là hai mặt gắn bó chặt chẽ với nhau, tác động, thúc đẩy lẫn nhau. Thực hiện tốt việc chống  quan liêu, tham nhũng, chống đặc quyền, đặc lợi trong Đảng sẽ có tác động quyết định đến việc chống quan liêu, tham nhũng trong toàn xã hội, thực hành dân chủ, làm lành mạnh các quan hệ xã hội. Vì thế, đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng là một nhiệm vụ trọng tâm của công tác xây dựng đảng. Các cấp ủy và tổ chức đảng, toàn thể cán bộ, đảng viên phải coi đây là nhiệm vụ chính trị của mình trong công tác xây dựng đảng.

Từ bản chất của Đảng và vai trò của Đảng cầm quyền, trước yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn phát triển mới, cần nhận thức rõ vấn đề phát huy dân chủ trong Đảng vừa là mục tiêu, vừa là động lực để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Các tổ chức đảng, cấp ủy các cấp, mọi đảng viên phải tự giác thực hiện và kiên quyết đấu tranh với các tư tưởng, hành vi sai trái vi phạm dân chủ trong Đảng và cả xã hội. Chỉ thực hiện tốt nhiệm vụ này mới giữ vững và củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng, lãnh đạo toàn dân thực hiện thắng lợi mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".

NGUYỄN TÙNG LÂM

Đại học Chính trị - Bộ Quốc phòng

Trích trong "Nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác xây dựng Đảng hiện nay",

Nxb.Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2014.

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2012, tr. 89.

2,3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2012, t.12, tr. 544.

4.  Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2012, tr. 174.

5.  Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa  XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2012, tr. 22.

6. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Báo cáo xây dựng đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng tại Đại hội III của Đảng, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.11.

7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa  XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2012, tr. 22 - 23.

8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa  XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2012, tr. 22.

9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2012, tr. 260.


 


Bình luận