Tham nhũng - Tác nhân kìm hãm quá trình phát triển bền vững

Ngày đăng: 18/03/2015 - 10:03

thamnhung12Tham nhũng và những hậu quả tiêu cực của tham nhũng trong quá trình phát triển bền vững

Tham nhũng là một căn bệnh phổ biến ở nhiều nước trên thế giới. Vào thập niên 1950, cảnh sát Campuchia đã nói không úp mở rằng: làm ruộng ăn lúa, làm quan ăn hối lộ. Trước đây, ông Mahathir Mohamad, nguyên Chủ tịch Đảng cầm quyền Um nô, nguyên Thủ tướng (1981-2003) của Malaixia đã khóc trước Đại hội Đảng này về nạn tham nhũng... Còn ở Việt Nam, các triều đại phong kiến đã có các chế tài, chính sách phòng, chống tham nhũng: Từ thời Hồng Đức và Gia Long đã có các bộ luật quy định về chống tham nhũng; thời Minh Mạng có “phép làm liêm”; thời Tự Đức có “chính sách báo liêm” của Nguyễn Trường Tộ. Ngày nay, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tham nhũng cùng với các tệ nạn xã hội được Đảng ta xác định là một trong bốn nguy cơ đe dọa sự tồn vong của chế độ.

Có thể nói tham nhũng là căn bệnh hiểm nghèo gắn liền với mọi nhà nước, bởi lẽ chừng nào còn nhà nước thì còn quyền lực, mà còn quyền lực thì dễ xuất hiện những người dùng sai quyền lực. Cuộc đấu tranh để loại bỏ những người sử dụng sai quyền lực ra khỏi bộ máy nhà nước là cuộc đấu tranh lâu dài, liên tục, bền bỉ và kiên định của mọi nhà nước, chống mạnh thì thịnh, chống yếu thì suy, ngoài ra không có con đường nào khác.

Tham nhũng là gì? Có thể có nhiều câu trả lời cho câu hỏi này. Ở cấp độ phân tích, Vito Tanzi đã đưa ra câu trả lời súc tích nhất: “Tham nhũng là hành động cố tình không tuân thủ các nguyên tắc công minh nhằm trục lợi cho cá nhân hoặc cho những kẻ có liên quan tới hành động đó”[1]. Có ba nội dung chính trong định nghĩa này: (1) Đề cập tới nguyên tắc công minh; (2) Thái độ thiên vị phải có chủ đích. Việc vô ý vi phạm nguyên tắc công minh, chẳng hạn vì thiếu thông tin đầy đủ, không được coi là tham nhũng; (3) Phải có ích lợi nhất định nào đó cho cá nhân vi phạm nguyên tắc công minh; nếu không sẽ không có tham nhũng.

Theo quan điểm của Ngân hàng thế giới, tham nhũng là “lạm dụng công quyền để tư lợi”. Quan niệm này cho rằng căn nguyên của tham nhũng xuất phát từ công quyền và lạm dụng công quyền, tham nhũng gắn liền với nhà nước và các hoạt động của nhà nước, gắn liền với việc nhà nước can thiệp vào thị trường và từ sự tồn tại của khu vực công. Nói cách khác, quan niệm này loại trừ khả năng tham nhũng xảy ra trong khu vực tư nhân, chỉ tập trung duy nhất vào tình trạng tham nhũng trong khu vực nhà nước. Theo lý luận mácxít, khi chủ nghĩa cộng sản thành công thì nhà nước không còn, giai cấp không còn và tất nhiên tham nhũng sẽ không còn.

Theo từ điển tiếng Việt thì: “Tham nhũng là lợi dụng quyền hành để nhũng nhiễu dân và lấy của”[2]. Tham nhũng là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn, vị thế xã hội của công chức nhà nước để làm trái pháp luật hoặc lợi dụng các sơ hở của pháp luật kiếm lợi cho bản thân, gây hại cho xã hội, cho công dân. Khoản 2 Điều 1, Luật phòng, chống tham nhũng ghi rõ: “Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi”.

Mặc dù được thể hiện theo những cách khác nhau song tham nhũng được hiểu khá thống nhất trong hệ thống pháp luật ở các nước trên thế giới, đó là việc lợi dụng vị trí, quyền hạn thực hiện hành vi trái pháp luật nhằm trục lợi cá nhân. Quan niệm của Việt Nam về tham nhũng cũng thống nhất với các nội dung đề cập nói trên.

Khái niệm “phát triển bền vững” chính thức xuất hiện năm 1987 trong báo cáo Tương lai của chúng ta của Hội đồng thế giới về môi trường và phát triển (WCED) với ý nghĩa: “Sự phát triển đáp ứng được những yêu cầu của hiện tại, nhưng không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau”. Mục tiêu tổng quát của phát triển bền vững là kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa được ba mặt: phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. Chính vì những mục tiêu như vậy mà phát triển bền vững đã trở thành nhu cầu cấp bách, là xu thế tất yếu trong tiến trình phát triển của xã hội loài người. Cùng với quá trình hội nhập sâu hơn, rộng hơn với nền kinh tế thế giới, Đảng ta xác định: “Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong chiến lược”[3]. Phát triển bền vững ở Việt Nam là chiến lược toàn diện, giữ vị trí vai trò quan trọng trong xây dựng mục tiêu, quy hoạch tổng thể và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, của từng địa phương trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Quan hệ giữa tham nhũng và phát triển bền vững rất ít được các nhà khoa học quan tâm, chúng tôi đồng tình với quan điểm “tham nhũng có làm giảm tăng trưởng, nhất là tăng trưởng bền vững, cân đối nhưng phát triển cân đối, bền vững cũng sẽ làm giảm tham nhũng”, “Nói gọn lại: Càng nhiều tham nhũng thì càng chậm phát triển, mà càng chậm phát triển thì tham nhũng càng dây dưa. Đó là một cái vòng luẩn quẩn”[4]. Suy cho cùng, tăng trưởng thu nhập không bao giờ là mục tiêu duy nhất của phát triển. Cho dù tăng trưởng thu nhập có thể xảy ra trong một xã hội tham nhũng nhưng chênh lệch giàu nghèo sâu sắc, tệ nạn tràn lan, ô nhiễm môi trường nghiêm trọng thì khó có thể gọi đó là một xã hội, một đất nước đang hướng tới sự phát triển bền vững.

Theo thống kê của Ngân hàng thế giới và UNDP, ở các nước đang phát triển, tham nhũng lấy đi mỗi năm từ 20 - 40 tỷ USD. Một phần trăm số tiền đó, khoảng 200 triệu USD, cũng đủ tiêm chủng cho 8 triệu trẻ sơ sinh hay nửa triệu người nghèo có nước sạch dùng trong cả năm, hoặc chữa chạy cho 1,2 triệu người nhiễm HIV. Thực tế đó đã chứng minh những hậu nghiêm trọng của tham nhũng đối với nền kinh tế của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Cụ thể hơn, những hậu quả của tham nhũng đối với chiến lược phát triển bền vững có thể là:

Một là, hậu quả của tham nhũng tác động xấu đến tăng trưởng và phát triển. Tham nhũng gây thất thoát hàng ngàn tỷ đồng của Nhà nước. Tiền từ ngân sách của Nhà nước, thực chất là các loại thuế, phí, lệ phí do nhân dân đóng góp, nay vì tham nhũng nên không được sử dụng đúng mục đích của nó. Một số công trình nghiên cứu về chi phí kinh tế của tham nhũng đưa ra số liệu, tham nhũng làm tăng 3 - 10% cho giá của một giao dịch để đẩy nhanh tiến độ, tổn thất khoảng 50% nguồn thu từ thuế. Tham nhũng làm tăng chi phí đầu tư mà không có bất kỳ bảo đảm cung cấp cho sản xuất các kết quả cần thiết. Thực trạng này thường diễn ra ở các dự án về đầu tư xây dựng cơ bản, xây dựng cơ sở hạ tầng, để hợp lý hóa nên các con sâu “tham nhũng” hoặc là đẩy chi phí lên cao hoặc rút ruột các công trình làm cho chất lượng các công trình không được bảo đảm. Tham nhũng do đó làm tăng sự không chắc chắn và rủi ro gắn với đầu tư cũng như giảm ưu đãi cho các doanh nghiệp. Mức độ tham nhũng cao có thể làm cho các nhà tài trợ đình chỉ, giảm bớt hoặc rút quỹ hỗ trợ phát triển. Tham nhũng làm chậm đầu tư, làm giảm thu nhập và ảnh hưởng đến thành phần chi tiêu của mọi người.

Hai là, tham nhũng tác động mạnh đến nghèo đói, bần cùng hóa người lao động, khoảng cách giàu nghèo tăng lên. Thực tế cho thấy rằng, tham nhũng là quá trình chuyển hướng nguồn lực và lợi ích về phía người giàu và đẩy xa chúng khỏi người nghèo. Tham nhũng là một hành vi lợi dụng quyền hạn của cá nhân để trục lợi, đó là quá trình ăn cắp của công, của dân, điều đó góp phần bần cùng hóa những người lao động nghèo, không có địa vị hoặc địa vị không quan trọng trong xã hội. Tham nhũng góp phần xáo trộn các mô hình của chi tiêu công và đầu tư bằng cách khuyến khích vốn đầu tư lớn vào các dự án chuyên sâu để tăng tối đa biên độ hối lộ. Điều này làm giảm nguồn lực sẵn có cho chính phủ để giảm nghèo thông qua giáo dục và các chương trình xã hội. Các dự án đầu tư phục vụ cho an sinh xã hội sẽ bị cắt giảm cả về số lượng và chất lượng khi có các hiện tượng tham nhũng. Với thủ đoạn trắng trợn, tinh vi, những kẻ tham nhũng tìm mọi cách để đặt thêm các loại thuế “bổ sung” ảnh hưởng đến tính minh bạch và lợi ích của những người lao động, người yếu thế trong xã hội. Hậu quả của tham nhũng như đã trình bày là làm thâm hụt nguồn thuế thu nhập cho chính phủ và vì thế làm giảm các dịch vụ công cộng có lợi cho người nghèo. Quá trình phân hóa “kẻ giàu, người nghèo” trong xã hội gia tăng từ chính hậu quả của tham nhũng.

Ba là, tham nhũng là nguyên nhân dẫn đến những bất bình đẳng trong thực hiện các quyền cơ bản của con người. Tham nhũng là một trong những tác nhân cản trở quá trình thực hiện các quyền cơ bản của con người. Ví dụ, phải hối lộ quan chức trong ngành giáo dục để được chọn trường, chọn lớp và như vậy quyền lợi của người học đã bị xâm phạm. Tham nhũng là một hình thức đặc biệt nguy hại gây ra sự phân biệt đối xử. Mục đích của nó là để nhận được lợi ích, đặc ân từ những người nhận hối lộ. Tham nhũng vi phạm quyền con người vì nó phân biệt và chống lại những người nghèo bằng cách từ chối họ quyền tham gia vào các dịch vụ công cộng và cản trở họ thực hiện quyền chính trị.

Bốn là, tham nhũng trực tiếp và gián tiếp tác động xấu đến các vấn đề văn hóa, xã hội và môi trường sinh thái. Tham nhũng góp phần gây ra bất bình đẳng và tạo ra sự chia rẽ, xung đột xã hội. Tham nhũng làm giảm sự tôn trọng của quần chúng nhân dân vào chính quyền, quá trình xây dựng một xã hội dân chủ bị đe dọa, người dân không tin tưởng vào bộ máy chính quyền sở tại. Trong nhiều trường hợp, tham nhũng có thể chuyển hướng các nguồn lực từ các chương trình xã hội với một số hậu quả tiêu cực. Tham nhũng gián tiếp tác động, hủy hoại môi trường sinh thái, khuyến khích việc khai thác rừng, khai thác quá mức tài nguyên khoáng sản vì chạy theo lợi nhuận và do lòng tham của một số người mà không quan tâm đến nhu cầu của người dân hiện tại và tương lai, đe dọa nghiêm trọng đến quá trình phát triển bền vững.

Tham nhũng ở Việt Nam - những con số từ truyền thông

Ở Việt Nam cũng như các nước khác, việc đánh giá chính xác về tình hình tham nhũng diễn ra trên thực tế là rất khó khăn, vì tham nhũng cũng giống như một tảng băng trên biển, chỉ có thể nhận biết được phần nổi qua những vụ việc đã được phát hiện, xử lý. Theo chỉ số nhận thức tham nhũng năm 2012 được Tổ chức minh bạch quốc tế công bố, Việt Nam đứng thứ 123 trên 176 quốc gia[5].

Thông qua kết quả phát hiện, xử lý các vụ việc tham nhũng trong những năm qua và căn cứ việc đánh giá của các cơ quan chức năng, Đảng và Nhà nước đã khẳng định tình hình tham nhũng ở Việt Nam là nghiêm trọng. Tham nhũng diễn ra trên tất cả các lĩnh vực, dưới đây là một số lĩnh vực nhạy cảm mà chúng tôi đã thống kê được qua các phương tiện truyền thông trong nước:

1. Trong lĩnh vực quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên, khoáng sản, tham nhũng chủ yếu diễn ra trong việc quy hoạch; chuyển đổi mục đích sử dụng đất; thu hồi đất nông nghiệp để xây dựng các khu kinh tế, khu công nghiệp, khu đô thị; giao đất, cho thuê đất; định giá đất khi thu hồi, đền bù; cấp phép khai thác tài nguyên, khoáng sản... Một số người đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn để giao đất không đúng thẩm quyền; lập hồ sơ khống hoặc khai tăng diện tích đất khi đền bù. Điển hình là vụ lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ xảy ra tại dự án phát triển cơ sở hạ tầng đô thị Bắc Thăng Long - Vân Trì (Hà Nội), thiệt hại ước tính khoảng 14 tỷ đồng; vụ lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ xảy ra tại huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương, gây thiệt hại gần 11 tỷ đồng; vụ tham nhũng về đất đai tại Đồ Sơn và tại Quán Nam, thành phố Hải Phòng...;

2. Trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng nổi lên tình trạng tham nhũng, tiêu cực của một bộ phận cán bộ trong ngành ngân hàng, nhất là các ngân hàng thương mại hoặc cán bộ trong ngành ngân hàng tiếp tay, móc nối với người bên ngoài thông qua các hoạt động cho vay, bảo lãnh, cho thuê tài chính, đầu tư tài chính, ủy thác cho vay, ủy thác đầu tư... để chiếm đoạt tài sản, gây thất thoát lớn. Ví dụ như vụ Lê Hoài Phương, cán bộ Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Chi nhánh Cầu Giấy (Hà Nội) tham ô 24 tỷ đồng; vụ Phan Văn Tưởng, cán bộ Ngân hàng Techcombank cùng các đồng phạm tham ô trên 10 tỷ đồng; vụ Đoàn Tiến Dũng, Phó Tổng giám đốc Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam nhận của khách hàng 5 tỷ đồng, là khoản trích 3-10% trong số tiền mà khách hàng được vay của ngân hàng này; vụ Nguyễn Thị Thùy Vân tham ô hơn 24 tỷ đồng ở Ngân hàng cổ phần thương mại Sài Gòn - Hà Nội; vụ Hoàng Thị Thu Hà, Giám đốc Chi nhánh miền Bắc của Tổng công ty Vàng bạc đá quý Sài Gòn (SJC) lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ gây thất thoát 19 tỷ đồng; vụ Vũ Việt Hùng, Giám đốc Chi nhánh Ngân hàng Phát triển Đắk Lắk - Đắk Nông, nhận 92 tỷ đồng, 100.000USD và một ôtô BMW của Cao Bạch Mai và Trần Thị Xuân để cho vay không đúng quy định....

3. Trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản, phần lớn các công trình xây dựng đều xảy ra thất thoát tài sản, chủ yếu do tham ô và cố ý làm trái. Sai phạm xảy ra ở hầu hết các khâu, từ việc lập dự án, thiết kế, dự toán, phê duyệt kế hoạch cấp vốn đến đấu thầu, tư vấn, giám sát, thi công, nghiệm thu, quyết toán công trình. Thủ đoạn chủ yếu là không chấp hành đúng trình tự, thủ tục đầu tư xây dựng cơ bản; gian lận, thiếu minh bạch trong đấu thầu; khai khống khối lượng và giá trị vật tư, thiết bị; đưa vật liệu kém chất lượng, sai quy cách vào sử dụng; thi công sai quy trình để giảm chi phí... Điển hình như vụ tham ô, cố ý làm trái và lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ xảy ra tại Ban quản lý dự án Di tích lịch sử Chiến thắng Điện Biên Phủ; vụ Huỳnh Ngọc Sĩ, Giám đốc Ban quản lý Dự án đại lộ Đông - Tây, Thành phố Hồ Chí Minh nhận hối lộ để xét thầu, nghiệm thu có lợi cho người đưa hối lộ; vụ tham ô xảy ra tại Dự án xây dựng cầu Bãi Cháy, tỉnh Quảng Ninh...

4. Trong việc quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại các doanh nghiệp, thủ đoạn tham nhũng chủ yếu là giấu bớt và định giá trị tài sản, đất đai thấp hơn giá trị thực khi cổ phần hóa hoặc bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp; lập các hợp đồng mua bán, vận chuyển hoặc hóa đơn khống để chiếm đoạt; nâng khống giá hoặc gửi giá khi mua bán tài sản công để trục lợi. Ví như vụ Nguyễn Bi, Chủ tịch Hội đồng quản trị, kiêm Tổng giám đốc và Nguyễn Thanh Huyền, Phó Tổng giám đốc, Kế toán trưởng của Công ty Vifon - Thành phố Hồ Chí Minh, đã lập chứng từ khống chiếm đoạt hơn 20 tỷ đồng và không thu về cho công ty 59,9 tỷ đồng nhằm chiếm đoạt khi cổ phần hóa công ty này; vụ Trần Văn Khánh, Tổng công ty Vật tư nông nghiệp tham ô, cố ý làm trái, gây thiệt hại nhiều tỷ đồng; vụ Công ty Xăng dầu Hàng không khai khống tỷ lệ dầu hao hụt nhằm chiếm đoạt hàng chục tỷ đồng; vụ Công ty Cho thuê tài chính II thuộc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nâng khống giá thiết bị lặn từ 100 triệu lên 130 tỷ đồng...

5. Trong công tác cán bộ, dư luận về tình trạng “chạy chức, chạy quyền, chạy công chức” vẫn còn nặng nề, nhưng trong thực tế hầu như chưa phát hiện, xử lý được trường hợp nào. Dư luận nói nhiều đến hiện tượng một số cán bộ tiến thân bằng con đường chạy chọt, nịnh bợ cấp trên (tìm hiểu sở thích, nhu cầu cá nhân của cấp trên và gia đình họ để tìm cách đáp ứng; sẵn sàng biếu cấp trên những món quà có giá trị lớn như nhà ở, đất ở, cổ phần trong các dự án, công ty...).

6. Trong lĩnh vực tư pháp, hành vi tham nhũng chủ yếu là cán bộ tư pháp lợi dụng chức vụ, quyền hạn để nhận hối lộ nhằm bỏ lọt hoặc giảm nhẹ tội phạm trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Ví như vụ Vũ Văn Lương, thẩm phán Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm (Hà Nội) nhận hối lộ 70 triệu đồng trong vụ tranh chấp 2,7m2 công trình phụ; Hà Công Tuấn, thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh bị bắt quả tang nhận hối lộ 200 triệu đồng nhằm xử nhẹ tội cho bị cáo...

Ngoài những lĩnh vực trên, tình trạng nhũng nhiễu còn khá phổ biến trong quan hệ giữa cơ quan nhà nước và công chức nhà nước với người dân và doanh nghiệp, giữa nhân viên các cơ sở dịch vụ công với khách hàng, như: cảnh sát giao thông, cán bộ thuế, các cơ quan cấp phép, cơ sở khám, chữa bệnh, các trường học... gây bức xúc trong dư luận xã hội.

Hướng đến một Việt Nam minh bạch, thịnh vượng và phát triển bền vững trước hết phải phòng, chống tham nhũng

Việt Nam xem tham nhũng là nguy cơ đe dọa sự tồn vong của chế độ, chính vì vậy trong quá trình phát triển đất nước, luôn tích cực đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Đảng và Nhà nước đã ban hành một loạt các nghị quyết, văn bản pháp luật phục vụ cho quá trình đấu tranh phòng, chống tham nhũng như: Luật phòng, chống tham nhũng 2005; Nghị quyết 04-NQ/TW ngày 21-8-2006 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; Nghị quyết số 21/2009/NQ-CP ngày 12-5-2009 của Chính phủ ban hành Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng, lãng phí đến năm 2020; Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Nghị quyết Trung ương 4, Trung ương 5 (khóa XI)... Đấu tranh phòng, chống tham nhũng là một mặt trận gay go, quyết liệt và phải thực hiện kiên trì, bền bỉ với những giải pháp mạnh mẽ. Phòng, chống tham nhũng tức là góp phần hướng đến một xã hội minh bạch, thịnh vượng và phát triển bền vững, dưới đây chúng tôi đề xuất mấy giải pháp sau:

Một là, tăng cường công tác giáo dục, quản lý đội ngũ cán bộ, đảng viên; chú trọng “tự phê bình và phê bình” xây đi đôi với chống; xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên, đặc biệt là những người giữ chức vụ trọng yếu trong các cơ quan dân chính đảng, có hành vi tham nhũng

Thành công của sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc trước kia và công cuộc đổi mới đất nước ngày nay đều gắn liền với vai trò lãnh đạo của Đảng. Sức mạnh của Đảng thể hiện ở sức chiến đấu của mỗi cán bộ, đảng viên. Vì vậy, hơn ai hết đảng viên phải là người đi đầu trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng, đặc biệt là những đảng viên giữ các cương vị lãnh đạo trong bộ máy nhà nước. Cuộc đấu tranh chống tham nhũng là cuộc đấu tranh chống lại sự cám dỗ của vật chất trong môi trường kinh tế thị trường hiện nay. Công tác giáo dục đội ngũ cán bộ, đảng viên đóng vai trò quan trọng trong phòng, chống tham nhũng. Đảng phải hướng dẫn và theo dõi cán bộ, đảng viên rèn luyện đạo đức phẩm chất của mình qua những công việc cụ thể trên từng cương vị công tác. Giáo dục chính trị tư tưởng và rèn luyện phẩm chất đạo đức phải hướng đến những tiêu chí nhất định để mỗi đảng viên tự soi vào mà phấn đấu, rèn luyện và cũng để các tổ chức đảng có thể hiểu rõ đảng viên tổ chức mình và có biện pháp hướng dẫn, giúp đỡ.

Tăng cường quản lý đội ngũ cán bộ, đảng viên là vấn đề hết sức quan trọng. Điều cần lưu ý là phải tăng cường phối hợp chặt chẽ với các cơ quan nhà nước trong việc quản lý đội ngũ cán bộ, công chức, bởi vì đảng viên là cán bộ, công chức chiếm đa số, nhất là ở những vị trí lãnh đạo, quản lý. Quản lý đội ngũ cán bộ, đảng viên ở đây được hiểu là quản lý một cách toàn diện, từ khâu tuyển chọn bố trí, đề bạt, bổ nhiệm và đánh giá hiệu quả công tác trong quá trình sử dụng. Những sai lầm trong công tác quản lý cán bộ, đảng viên là mảnh đất nuôi dưỡng không ít những kẻ cơ hội đã lọt vào trong bộ máy đảng và nhà nước, thậm chí leo tới những vị trí trọng yếu với mục đích tạo lợi thế để thực hiện tham vọng cá nhân của mình. Đây là một vấn đề hết sức phức tạp, đòi hỏi phải có một nhận thức đầy đủ về tính chất nguy hại của sự buông lỏng quản lý cán bộ, đảng viên và cần có giải pháp khắc phục kịp thời.

Tự phê bình và phê bình là vũ khí sắc bén, là quy luật phát triển của Đảng. “Đảng không che giấu những khuyết điểm của mình, không sợ phê bình. Đảng phải nhận khuyết điểm của mình mà tự sửa chữa, để tiến bộ, và để dạy bảo cán bộ và đảng viên”[6]; “Mỗi đảng viên, trước hết là mỗi cán bộ phải thật thà tự phê bình, tự sửa chữa những khuyết điểm của mình... Kiên quyết chống bệnh tự mãn tự túc, tự tư tự lợi, kiêu ngạo, ba hoa”7. Trên thực tế, tự phê bình và phê bình chưa được thực hiện một cách nghiêm túc, thậm chí có tình trạng qua loa, đại khái ở một số nơi. Tự bản thân, nhiều cán bộ, đảng viên chưa ý thức được trách nhiệm của mình, chưa thấy được tự phê bình là phương pháp rèn luyện đạo đức cách mạng, chưa sử dụng nó như một vũ khí chống lại những thói hư tật xấu, những tư tưởng tiêu cực, tham nhũng của bản thân mình. Đồng thời nhiều cán bộ, đảng viên cũng chưa thấy trách nhiệm của mình là phải phê bình, góp ý chân tình, thẳng thắn cho tổ chức đảng và các đồng chí của mình để giữ vững bản chất tiên phong của Đảng. Thậm chí có nơi có lúc, phê bình đã bị lợi dụng để đấu đá nội bộ, kèn cựa tranh giành chức vụ, quyền lợi. Trước mắt, cần quán triệt và thực hiện nghiêm túc vấn đề “tự phê bình và phê bình” theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI), tiến hành chặt chẽ, đúng quy trình với một cách làm khoa học, thấu tình đạt lý, có như vậy nhân dân mới tin Đảng, tin cán bộ, đảng viên, tạo nên sự đồng thuận xã hội rộng lớn trong công tác xây dựng Đảng nói chung và công tác phòng, chống tham nhũng nói riêng.

Xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên, đặc biệt là những người giữ chức vụ trọng yếu trong các cơ quan dân chính đảng có hành vi tham nhũng. Đây đang là mối quan tâm của toàn xã hội. Sẽ không thể chờ đợi lòng tin của người dân nếu những người vi phạm pháp luật, nhất là những đảng viên giữ cương vị lãnh đạo có hành vi tham nhũng, tiêu cực có thể nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật ngay cả khi đã bị phát hiện và lên án. Quán triệt tinh thần của Đảng là chống tham nhũng phải bảo đảm giữ vững ổn định chính trị, nhưng như thế không có nghĩa là chúng ta làm ngơ hay nương tay với những kẻ coi thường uy tín của Đảng, bất chấp pháp luật và coi thường lợi ích của nhân dân. Đội ngũ cán bộ, công chức nhất là những cán bộ giữ chức vụ cao đặt dưới sự lãnh đạo và quản lý của Đảng. Vì vậy, việc xử lý nghiêm minh, kịp thời những hành vi tham nhũng hay vô trách nhiệm để xảy ra tham nhũng trước hết thuộc trách nhiệm của các tổ chức đảng và sẽ là một biện pháp có trách nhiệm răn đe, phòng ngừa rất hữu hiệu với tham nhũng.

Hai là, bổ sung hoàn thiện hệ thống luật, văn bản luật về quản lý kinh tế, tài chính; tiếp tục xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, hiệu quả; cải cách hành chính, thực hiện công khai, minh bạch các thủ tục hành chính.

Bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản lý kinh tế, tài chính là biện pháp hiệu quả để phòng ngừa tham nhũng. Về lý luận, tham nhũng tồn tại và phát triển trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định. Những sơ hở trong cơ chế, chính sách chính là điều kiện thuận lợi nhất cho các hành vi tham nhũng hoành hành. Vì vậy, cần phải bổ sung, hoàn thiện chính sách, pháp luật, quy chế, quy định của Nhà nước, bảo đảm các quy định đầy đủ, cụ thể rõ ràng, dễ thực hiện, trước hết về cơ chế quản lý kinh tế, tài chính, đất đai, quản lý tài sản công, dịch vụ công. Đồng thời, phải chấp hành nghiêm chỉnh sách, pháp luật, không để sơ hở, tùy tiện trong thực tế để kẻ xấu lợi dụng tham nhũng, thụ hưởng những đặc quyền, đặc lợi bất chính.

Tiếp tục xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, hiệu quả là một định hướng phù hợp với quá trình phát triển của đất nước theo hướng bền vững. Bộ máy nhà nước, đặc biệt là bộ máy quản lý hành chính, phát triển theo xu hướng ngày càng tăng về số lượng, phức tạp về chức năng, nhiệm vụ do những nguyên nhân khách quan. Chẳng hạn như: sự tăng nhanh về dân số và sự mở rộng nhanh chóng và không ngừng các lĩnh vực hoạt động kinh tế - xã hội của con người do tiến bộ của khoa học kỹ thuật mang đến. Tuy nhiên, có một thực tế là sự tăng cường bộ máy về số lượng chưa mang lại sự tương xứng về hiệu lực quản lý. Đây đang là vấn đề đáng phải suy nghĩ. Sự gia tăng về số lượng các cơ quan quản lý cũng như chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của nó đôi khi không dựa trên các yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và không dựa trên các luận cứ khoa học xác đáng, mà lại dựa vào ý chí chủ quan, thậm chí xuất phát từ những tư tưởng lợi ích cục bộ của ngành hay địa phương. Vì vậy, cần phải nghiên cứu sắp xếp lại bộ máy nhà nước theo hướng tinh gọn, chức năng nhiệm vụ rõ ràng gắn liền với trách nhiệm công vụ của từng bộ phận của nền hành chính đến từng cán bộ, công chức.

Ngoài ra thủ tục hành chính phiền hà rắc rối, thiếu công khai, chưa đủ minh bạch đã tạo điều kiện cho sự vòi vĩnh, sách nhiễu phát triển đến mức độ công nhiên. Nguyên nhân của tham nhũng có từ các kẽ hở, thiếu minh bạch của các thủ tục rườm rà đó. Vì vậy, cần tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa cải cách thủ tục hành chính, thường xuyên rà soát và loại bỏ ngay những thủ tục bất hợp lý, cản trở việc thực hiện quyền của công dân trong mọi lĩnh vực ở mọi ngành, mọi cấp, đặc biệt ở những khâu, những lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng, tiêu cực.

Ba là, cải cách chế độ tiền lương, nâng cao đời sống công chức nhà nước; làm tốt công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, kê khai tài sản minh bạch.

Cải cách chế độ tiền lương là vấn đề rất quan trọng, bởi lẽ bất kể ai lao động cũng nhằm đáp ứng các nhu cầu cho bản thân và gia đình họ, kể cả cán bộ, công chức. Công tâm là yêu cầu đầu tiên của nền công vụ đối với từng công chức. Nhưng người ta chỉ có thể thực sự công tâm khi không bị thúc ép bởi việc mưu sinh. Chúng ta khó có thể đòi hỏi người cán bộ, công chức phải tận tâm hết mình khi chế độ lương chưa đủ sống, ít nhất ở mức trung bình xã hội. Vì vậy, cùng với việc thường xuyên giáo dục ý thức, tư tưởng và trách nhiệm công chức thì cũng phải đẩy nhanh quá trình cải cách tiền lương. Đề án cải cách chế độ tiền lương đang thu hút sự quan tâm của toàn xã hội và thực là một trong những yếu tố quan trọng, một biện pháp cơ bản để phòng ngừa tham nhũng.

Thanh tra, kiểm tra, giám sát là biện pháp chống tham nhũng một cách chủ động và có hiệu quả nhất. Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Chín phần mười khuyết điểm trong công việc của chúng ta là vì thiếu sự kiểm tra”8; “Kiểm soát khéo, bao nhiêu khuyết điểm lòi ra hết, hơn nữa kiểm soát khéo về sau khuyết điểm sẽ bớt đi”9.

Cơ chế thanh tra, kiểm tra hiện nay còn có nhiều khiếm khuyết. Các cơ quan có chức năng thanh tra, kiểm tra thì nhiều, thậm chí có sự chồng chéo trong quá trình hoạt động, nhưng hiệu quả của công tác thanh tra, kiểm tra còn hạn chế. Để nâng cao hiệu quả của công tác này cần có sự phân định và phối hợp chặt chẽ giữa các phương thức thanh tra, kiểm tra, giám sát như một chỉnh thể có tính hệ thống thì mới có thể phát huy được tác dụng và hướng tới mục đích chung là bảo đảm hiệu quả quản lý nhà nước và phát huy quyền làm chủ của công dân. Song song với quá trình thanh tra, kiểm tra, giám sát thì công tác kê khai tài sản, minh bạch tài sản là một biện pháp quan trọng để phòng, chống tham nhũng có hiệu quả. Thời gian tới, cần tiến hành kê khai tài sản của cán bộ, công chức một cách công khai, thường xuyên tại nơi làm việc của người có nghĩa vụ kê khai. Đồng thời, người có nghĩa vụ kê khai phải giải trình về nguồn gốc phần tài sản tăng thêm, làm rõ biến động về tài sản của mình có trong thời kỳ kê khai. Làm tốt và triệt để vấn đề này tức là góp phần minh bạch tài sản của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước và dễ dàng phát hiện ra nguồn gốc các tài sản tăng thêm... góp phần đấu tranh phòng, chống tham nhũng ngay từ các cơ quan, bộ máy ở cơ sở trở lên.

Bốn là, phát huy vai trò của các tổ chức xã hội, cơ quan báo chí truyền thông và quần chúng nhân dân trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng.

Kinh nghiệm của nhiều quốc gia trên thế giới cho thấy, muốn chống tham nhũng thành công thì không thể chỉ dựa vào nỗ lực của các cơ quan nhà nước mà nhất thiết phải phát huy được vai trò, trách nhiệm và có được sự tham gia, ủng hộ tích cực của toàn xã hội; phải xây dựng được cơ chế xã hội, ở đó các cơ quan báo chí và người làm công tác báo chí có quyền độc lập, tự chủ trong việc lấy tin, viết bài và được pháp luật bảo hộ khi bị ngăn cản. Cơ quan đấu tranh chống tham nhũng có nhiệm vụ xác minh đầy đủ và kịp thời các nguồn tin chống tham nhũng trên báo chí và có trách nhiệm trong việc bảo vệ bí mật đối với người tố cáo, tố giác tội phạm. Ở Trung Quốc, đơn tố cáo, tố giác của nhân dân về tham nhũng là nguồn quan trọng nhất để phát hiện tội phạm. Theo thống kê, có tới 80% vụ án tham nhũng khám phá được là do nhân dân, báo chí tố giác và hơn 90% là do nhân dân, báo chí cung cấp đầu mối. Nếu tội tham nhũng được phát hiện và xử lý thì người tố giác, tố cáo tội phạm được hưởng một tỷ lệ phần trăm nhất định trên tổng số giá trị tài sản mà cơ quan đấu tranh chống tham nhũng thu hồi. Giải pháp này nhằm phát huy vai trò của nhân dân trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Đây có thể là kinh nghiệm quý cho Việt Nam tham khảo trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng.

Hiến pháp năm 1992 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định “Các cơ quan nhà nước, cán bộ, viên chức nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, và mọi biểu hiện quan liêu hách dịch, cửa quyền” (Điều 8). Giám sát của nhân dân là giám sát thường xuyên và đông đảo nhất, vì vậy cần tạo ra cơ chế để nhân dân thực hiện tốt nhất quyền giám sát của mình và để các cơ quan có trách nhiệm tiếp nhận tốt nhất, nhanh nhất và xử lý có hiệu quả nhất ý kiến phản ánh của người dân đối với hoạt động công vụ cũng như những biểu hiện vi phạm của các cán bộ, công chức nhà nước, góp phần phòng ngừa và đấu tranh có hiệu quả với nạn tham nhũng.

Trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng không thể không nhắc đến vai trò to lớn của các cơ quan thông tin đại chúng. Báo chí là tiếng nói của nhân dân là cầu nối giữa nhân dân và Nhà nước. Báo chí đưa đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước đến từng người dân, công tác thông tin tuyên truyền, nhất là về pháp luật, cần phải được chú trọng hơn nữa. Những thông tin trung thực về thực tiễn hoạt động của các cơ quan nhà nước và tiếng nói từ địa phương là những thông tin hết sức bổ ích cho các nhà hoạch định chính sách để không ngừng hoàn thiện cơ chế quản lý, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế. Với lương tâm nghề nghiệp và khả năng chuyên môn nghiệp vụ của mình, các nhà báo có thể giúp cho cơ quan chức năng kịp thời phát hiện các hiện tượng tham nhũng. Trên thực tế, báo chí thường xuyên phản ánh những hiện tượng vi phạm pháp luật, những biểu hiện của tệ tham nhũng. Ngoài ra, báo chí cũng cần làm tốt chức năng định hướng dư luận trong việc phê phán, lên án những hành vi tham nhũng hoặc những biểu hiện thoái hóa, biến chất trong lối sống của cán bộ, đảng viên. Các nhà báo phải thực sự trở thành những chiến sĩ trên mặt trận văn hóa tư tưởng, phê phán một cách tích cực thói hư tật xấu, biểu dương các cá nhân và tập thể đã dũng cảm đấu tranh chống tham nhũng, đồng thời cũng tích cực bảo vệ những người chống tiêu cực tham nhũng.

*

Kinh tế thế giới đang trải qua những năm khó khăn nhất trong hai thập niên trở lại đây, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu vẫn chưa kết thúc. Ở các nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam, tham nhũng vừa là một trong những nguyên nhân đưa đến sự khủng hoảng, vừa là một trở ngại to lớn cho những giải pháp vượt ra khỏi khủng hoảng để hướng tới những mục tiêu lớn của phát triển bền vững.

Lạc quan với những giải pháp phòng, chống tham nhũng mà Đảng và Nhà nước ta đề ra trong thời gian vừa qua trên cơ sở nghiên cứu lý luận chung về tham nhũng và phát triển bền vững, chúng tôi cũng mạnh dạn trình bày các giải pháp phòng, chống tham nhũng để hướng tới một Việt Nam minh bạch, thịnh vượng và phát triển bền vững. Cuộc chiến chống tham nhũng ở Việt Nam phải có được sự lên tiếng và hành động của toàn xã hội, là cuộc chiến gay go, quyết liệt, là cuộc chiến đòi hỏi phải kiên trì, bền bỉ mới hy vọng đạt được những kết quả khả quan. Hiệu quả tích cực của công tác phòng, chống tham nhũng sẽ góp phần quan trọng cho đường lối “Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong chiến lược”10 của Đảng Cộng sản Việt Nam đi đến thành công.

ThS. Phạm Nguyễn Ngọc Anh

Trường Sĩ quan Kỹ thuật Công binh - Bộ Quốc phòng

Trích từ sách: Bàn về giải pháp phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay, Nxb.Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2014.

 

Chú thích:

1. http://www.cadal.org/english/pdf/documento 26_english.pdf.

2.Viện Ngôn ngữ học: Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, 2004, tr.910.

3, 10. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.98.

4. Nguyễn Hữu Dũng: “Tham nhũng và tăng trưởng kinh tế”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 4/1999, tr.1-18.

5. http://vietnamnet.vn/vn/quoc-te/100232/the-gioi-24h--nuoc-tham-nhung-nhat-.html.

 6, 7,8,9. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.5, tr.290, 308, 637, 327.

 

 

 

 

 

 

 

 

Bình luận