Xây dựng văn hóa lãnh đạo - Cầm quyền của Đảng - Nền tảng xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh

Ngày đăng: 26/03/2015 - 14:03

Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Thực tiễn 83 năm cách mạng Việt Nam với bao nhiêu khó khăn, thử thách đã minh chứng, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi.

Hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đang lãnh đạo toàn dân tộc phấn đấu thực hiện mục tiêu chiến lược: đến năm 2020 đưa đất nước cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, đặt cơ sở để đến giữa thế kỷ XXI trở thành nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là một sự nghiệp vĩ đại, có ý nghĩa lịch sử, đầy vinh quang, song cũng nhiều gian nan, thách thức, nhất là trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang diễn ra nhiều biến động phức tạp sau cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ; nền kinh tế trong nước đang phải đối đầu với không ít khó khăn.

Để có thể đảm đương vai trò, sứ mệnh nặng nề và vẻ vang của đảng cầm quyền, lãnh đạo thành công sự nghiệp phát triển đất nước, Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực lãnh đạo1. Nhận thức sâu sắc yêu cầu khách quan đó, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định ba trụ cột trong đường lối chiến lược là: phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, nâng cao văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội.

Toàn bộ quá trình xây dựng Đảng về thực chất là quá trình xây dựng, nâng cao, phát huy văn hóa lãnh đạo - cầm quyền của Đảng; làm cho văn hóa thấm sâu vào đời sống, mọi thành tố, mọi hoạt động của Đảng, tạo nên hệ giá trị cốt lõi tràn đầy sức sống; đưa hệ giá trị đó thẩm thấu, lan tỏa trong nhân dân, trở thành hệ giá trị chủ đạo của toàn xã hội, thành sức mạnh nội sinh của dân tộc.

Từ thực tiễn xây dựng văn hóa lãnh đạo - cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, bước đầu có thể khái quát một số vấn đề cơ bản sau đây.

1. Giữ vững, bồi đắp bản chất giai cấp, bản chất cách mạng - khoa học của Đảng là công việc hệ trọng có ý nghĩa quyết định trong xây dựng văn hoá lãnh đạo - cầm quyền

Là một đảng mác xít ra đời ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, kết quả của sự kết hợp biện chứng giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân, phong trào yêu nước Việt Nam, trưởng thành trong cuộc đấu tranh gian khổ giành độc lập, tự do và từng bước đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn chăm lo xây dựng, bồi đắp bản chất giai cấp công nhân, bản chất cách mạng - khoa học.

Nghiêm túc tổng kết thực tiễn cách mạng Việt Nam; phân tích sâu sắc những nét đặc thù của đời sống chính trị - kinh tế - văn hoá - xã hội của đất nước, nhận thức mối quan hệ không thể tách rời giữa giai cấp và dân tộc; thấm nhuần và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng đã hoàn thiện nhận thức, kiên trì giữ vững và không ngừng củng cố bản chất của Đảng. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”2.

Đó là định hướng tư tưởng chỉ đạo toàn bộ quá trình xây dựng, phát triển văn hoá lãnh đạo - cầm quyền trên các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, tổ chức:

Thứ nhất, Đảng phải là tổ chức tiên phong, tập hợp và xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên thật sự là những người ưu tú nhất của giai cấp công nhân, của dân tộc; đi đầu trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, nêu gương sáng về phẩm chất, năng lực, đạo đức, lối sống.

Thứ hai, Đảng phải thật sự tiêu biểu cho khát vọng hoà bình, độc lập, tự do, hạnh phúc của giai cấp, dân tộc.

Thứ ba, Đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng phải tuyệt đối trung thành, hy sinh, phấn đấu vì lợi ích tối cao và lợi ích chính đáng hằng ngày của giai cấp, dân tộc, của con người Việt Nam.

Thứ tư, Đảng phải hội tụ, kết tinh, phát huy những giá trị tinh hoa của văn hoá, đạo đức dân tộc kết hợp với tiếp thu tinh hoa văn hoá của nhân loại; hình thành, thực thi, truyền bá hệ giá trị cốt lõi của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam trong thời đại mới.

Thứ năm, Đảng phải là linh hồn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc gắn với mở rộng đoàn kết, hợp tác quốc tế; phát huy đến mức cao nhất tài năng và sức sáng tạo của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam.

Xây dựng, bồi đắp bản chất giai cấp công nhân, bản chất cách mạng - khoa học của Đảng, nhìn ở tầm cao và tầng sâu văn hoá, chính là xây dựng hệ giá trị hạt nhân, củng cố những thuộc tính căn bản của Đảng. Làm theo di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời: “Đảng ta là đạo đức, là văn minh, là thống nhất, độc lập, là hoà bình ấm no3. Trong tiến trình đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn phấn đấu xây dựng Đảng khoa học - cách mạng - dân chủ - nhân văn; lấy trí tuệ - đổi mới - dân chủ - đoàn kết - phát triển làm tư tưởng chủ đạo của các kỳ đại hội hội Đảng và hoạt động thực tiễn của Đảng.

2. Không ngừng làm ngời sáng lý tưởng độc lập dân tộc - chủ nghĩa xã hội; vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nâng cao tầm trí tuệ, năng lực lãnh đạo, sáng tạo giá trị hạt nhân của văn hoá đảng

Sức thu hút, cảm hoá, tập hợp, hướng dẫn của Đảng trước hết bắt nguồn và toả sáng từ lý tưởng phấn đấu của Đảng được cụ thể hoá trong cương lĩnh chính trị, trong đường lối, quan điểm và những định hướng chiến lược phát triển đất nước. Đảng Cộng sản Việt Nam trước sau như một luôn kiên định mục tiêu lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; xem độc lập dân tộc là tiền đề, điều kiện quan trọng nhất để xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội chính là nhân tố quyết định bảo đảm thực chất, hiệu quả và sự bền vững của độc lập dân tộc. Trên con đường tìm tòi, sáng tạo xây dựng chế độ xã hội mới, dù phải trải qua nhiều sóng gió, có lúc phải đối đầu với những tình thế hiểm nghèo, có lúc phải trải qua những khó khăn, vấp váp, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn kiên định mục tiêu lý tưởng đã lựa chọn. Đây là bài học quan trọng nhất trong quá trình lãnh đạo - cầm quyền của Đảng, thể hiện bản lĩnh chính trị và sức sống văn hoá của Đảng.

Để lý tưởng của Đảng không trở thành khẩu hiệu chung chung, trừu tượng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang tập trung hoàn thiện đường lối chiến lược phát triển đất nước, từng bước làm rõ hơn nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đảng chủ trương đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tiếp tục vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; cầu thị nghiên cứu, tiếp thu những tri thức lý luận mới, học hỏi kinh nghiệm của các đảng cộng sản, đảng cầm quyền trên thế giới. Công tác nghiên cứu, phát triển lý luận được gắn liền với tổng kết thực tiễn công cuộc đổi mới đất nước, nhạy bén phát hiện, nhân rộng những nhân tố mới, những sáng kiến hay, kinh nghiệm tốt của cán bộ, đảng viên, nhân dân từ cơ sở; lấy thực tiễn kiểm chứng, bổ sung, làm giàu thêm và làm phong phú nhận thức lý luận; hướng lý luận phục vụ thiết thực yêu cầu hoàn thiện, phát triển đường lối, giải quyết những vấn đề thực tiễn mới đang đặt ra. Bám sát thực tiễn, hợp theo lòng dân, thuận theo xu thế tiến bộ của thời đại, kiên quyết khắc phục sự bảo thủ, trì trệ, giáo điều và khuynh hướng chủ quan, nóng vội, duy ý chí, đổi mới cực đoan, vô nguyên tắc… là phương châm của Đảng trong hoạch định, thực thi đường lối, chính sách.

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng năm 2011 cùng với văn kiện các hội nghị Ban Chấp hành Trung ương khoá XI đánh dấu bước tiến mới trong tư duy lý luận, thể hiện tầm trí tuệ của Đảng. Về tầm nhìn dài hạn, Đảng đã cụ thể hóa lý tưởng phấn đấu thành mục tiêu chiến lược: xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; hoàn thiện một bước mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; xác định những phương hướng, định hướng phát triển cơ bản trên các lĩnh vực. Về tầm nhìn trung và ngắn hạn, Đảng nêu rõ định hướng đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với cơ cấu lại nền kinh tế, hướng vào ba khâu đột phá: hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, phát triển kết cấu hạ tầng; gắn kết phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển…

Mục tiêu lý tưởng và đường lối, chủ trương của Đảng đã và đang được quán triệt, triển khai sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân, ở tất cả các cấp, các ngành với những chương trình, kế hoạch, dự án, công trình cụ thể; với các phong trào thi đua yêu nước sôi nổi, đưa đến những thành quả thiết thực. Đưa hơi thở của đời sống vào nghị quyết của Đảng; đưa nghị quyết Đảng lan tỏa, thấm sâu vào đời sống lao động, sáng tạo - đó là sinh khí của văn hóa lãnh đạo - cầm quyền.

3. Xây dựng, thực hành văn hóa tổ chức, văn hóa dùng người - then chốt của văn hóa lãnh đạo - cầm quyền

Sức mạnh của Đảng gắn liền với sức mạnh của tổ chức đảng, tổ chức hệ thống chính trị và đội ngũ cán bộ, đảng viên. Bước vào thời kỳ phát triển chiến lược mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đặc biệt chú trọng nâng cao chất lượng công tác tổ chức - cán bộ mà chiều sâu chính là khoa học hóa, hợp lý hóa, hiệu lực - hiệu quả hóa công tác tổ chức; nâng cao văn hóa dùng người.

Về văn hóa tổ chức, Đảng Cộng sản Việt Nam chú trọng nâng cao năng lực, trình độ thiết kế, xây dựng, hoàn thiện hệ thống, mô hình tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở tinh gọn, thống nhất, đồng bộ, chặt chẽ, thông suốt, hoạt động hiệu quả. Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức và mối quan hệ mật thiết giữa các tổ chức trong hệ thống đảng, giữa tổ chức đảng với tổ chức nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội, bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đồng thời, phát huy tính chủ động, năng động, sáng tạo của các tổ chức, các cấp ủy đảng.

Vấn đề quan tâm hàng đầu của Đảng là tiếp tục cụ thể hoá, hoàn thiện các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt của Đảng, đưa những nguyên tắc đó thấm sâu vào đời sống và mọi hoạt động của Đảng.

Để nguyên tắc tập trung dân chủ thật sự có sức sống, một mặt, Đảng coi trọng thực hành, phát huy dân chủ trong Đảng; xây dựng, thực hiện quy chế đối thoại, chất vấn, giải trình; mở rộng các hình thức góp ý, phản biện, tham vấn quá trình xây dựng, ban hành, thực thi các chủ trương, đường lối của Đảng. Mặt khác, Đảng tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện Điều lệ Đảng, các nghị quyết, chỉ thị, quyết định, quy định của Đảng. Dân chủ càng mở rộng, kỷ cương, kỷ luật càng phải được đề cao.

Nhằm không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, hiện nay Đảng Cộng sản Việt Nam đặc biệt chú trọng thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình, triển khai từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài. Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các đồng chí lãnh đạo cấp cao làm trước, làm gương cho toàn Đảng. Tự phê bình và phê bình căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ được giao; xuất phát từ mục tiêu xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, củng cố sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, bồi đắp tình thương yêu đồng chí. Văn hoá tự phê bình và phê bình hình thành, phát triển đồng thời và trở thành một nhân tố quan trọng của văn hoá lãnh đạo - cầm quyền.

Bảo đảm hiệu lực, hiệu quả thực tế của công tác lãnh đạo, khắc phục tình trạng né tránh, đùn đẩy trách nhiệm, Đảng quan tâm cụ thể hoá nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Một mặt, Đảng khẳng định nguyên tắc thảo luận tập thể, quyết định tập thể theo tinh thần dân chủ, tập trung; mặt khác, đề cao, tôn trọng vai trò chủ động, năng lực đề xuất, sự quyết đoán, tự chịu trách nhiệm trong chỉ đạo, điều hành của người đứng đầu các cấp ủy đảng, các cấp chính quyền, Mặt trận, đoàn thể.

Về văn hoá dùng người, Đảng Cộng sản Việt Nam đặt công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, đặc biệt là cán bộ cấp chiến lược, thành một trong những nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách của công tác xây dựng Đảng. Đảng chủ trương đổi mới mạnh mẽ tư duy về công tác cán bộ; tiếp tục bổ sung, hoàn thiện các cơ chế, chính sách nhằm nâng cao chất lượng các khâu, các công đoạn của công tác cán bộ, hình thành một quy trình hoàn chỉnh, khoa học, đặt trọng tâm ở khâu đánh giá, bố trí, sàng lọc cán bộ, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch, thực chất.

Điểm nổi bật trong văn hoá dùng người của Đảng được thể hiện sinh động qua hàng loạt cơ chế, quy chế, quy định mới được ban hành hoặc đang được khẩn trương xây dựng: Quy chế phát hiện, tiến cử, giới thiệu những cán bộ có đức, có tài; Quy hoạch dự nguồn cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp; Quy định tiêu chuẩn đối với từng chức danh cán bộ lãnh đạo; Quy chế thi tuyển, tranh cử, bầu cử; Quy định về bồi dưỡng, đào tạo, điều động, luân chuyển cán bộ; Quy chế bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm; Quy chế Mặt trận, đoàn thể chính trị - xã hội, nhân dân giám sát cán bộ, đảng viên…

Mới đây, quy chế định kỳ lấy phiếu tín nhiệm trong Đảng, trong các cơ quan dân cử, các đoàn thể chính trị - xã hội đã bước đầu đi vào đời sống, tạo một luồng sinh khí mới. Quốc hội Việt Nam, tại kỳ họp tháng 6 - 2013 đã thể nghiệm thành công việc lấy phiếu tín nhiệm đối với 47 chức danh do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn, đánh dấu một bước tiến nhiều ý nghĩa trong thực hành dân chủ và văn hoá dùng người theo tư tưởng chỉ đạo của Đảng.

4. Xây dựng, phát huy đạo đức của Đảng, phẩm chất, nhân cách của cán bộ, đảng viên - nền tảng của văn hoá lãnh đạo - cầm quyền

Ra đời và trưởng thành trong lòng một dân tộc trọng đạo lý, nhân cách, từ rất sớm, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đặc biệt chú trọng xây dựng đạo đức của Đảng, của đội ngũ cán bộ, đảng viên theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh: đặt lợi ích của Tổ quốc, dân tộc lên trên hết; ngoài lợi ích của giai cấp, dân tộc, Đảng không có lợi ích nào khác; cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là công bộc trung thành của nhân dân, phải cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân… Vai trò lãnh đạo, uy tín và sức mạnh của Đảng được xây đắp bởi niềm tin và hy vọng của nhân dân, trong đó đạo đức của Đảng, phẩm chất, nhân cách của cán bộ, đảng viên là nhân tố có sức thuyết phục trực tiếp, vô cùng quan trọng.

Ngày nay, trong bối cảnh phát triển của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, trong xã hội xuất hiện những thay đổi về nhận thức thang bậc và chuẩn mực giá trị. Vấn đề giữ gìn, nâng cao đạo đức của Đảng, rèn luyện và nêu gương về phẩm chất, nhân cách của cán bộ, đảng viên có ý nghĩa vô cùng quan trọng, liên quan trực tiếp đến thanh danh và uy tín của Đảng. Nhận thức sâu sắc yêu cầu khách quan này, Đảng Cộng sản Việt Nam đặt vấn đề xây dựng đạo đức, lối sống trong Đảng, trong hệ thống chính trị thành nhiệm vụ trọng tâm; lấy sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên làm một nội dung, một phương thức trọng yếu trong công việc lãnh đạo - cầm quyền của Đảng4. Đảng nhấn mạnh: Văn hóa đạo đức và lối sống lành mạnh phải được thể hiện trước hết trong mọi tổ chức của Đảng, Nhà nước, đoàn thể, trong cán bộ, viên chức nhà nước trong từng đảng viên, hội viên,... Từ sự gương mẫu về mọi mặt của các tổ chức và từng cán bộ trong bộ máy đảng, nhà nước, đoàn thể mà phát huy vai trò lãnh đạo thực hiện cuộc vận động “Toàn dân xây dựng đời sống văn hóa”5.

Hiện thực hóa tư tưởng xây dựng đạo đức, lối sống trong Đảng, từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (năm 2006) đến nay, trong toàn Đảng đã triển khai sâu rộng, thường xuyên, liên tục việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh. Quán triệt, vận dụng, cụ thể hóa những nội dung cơ bản trong tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; kế thừa những giá trị, phẩm chất cao quý trong đạo đức của Người, các tổ chức đảng và từng cán bộ, đảng viên, từ cơ quan lãnh đạo cao nhất đến chi bộ đảng, từ Tổng Bí thư đến đảng viên ở cơ sở, xây dựng những chuẩn mực đạo đức phù hợp, có kế hoạch rèn luyện, phấn đấu thực hiện, thường xuyên tự kiểm điểm, đánh giá trong sinh hoạt chi bộ. Việc học tập, làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh được gắn kết chặt chẽ với việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị; với nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng; với cuộc đấu tranh phòng chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Việc làm thiết thực này đã bồi đắp nền tảng dạo đức trong Đảng, tạo hiệu ứng lan tỏa tích cực trong toàn xã hội, góp phần hình thành những giá trị văn hóa - đạo đức mới.

5. Xây dựng, thực hành phương pháp, phong cách lãnh đạo - cầm quyền khoa học, mở đường đưa văn hóa đảng đi vào đời sống, đến với nhân dân

Tư tưởng, đường lối, chính sách của Đảng đi vào đời sống xã hội, truyền tải đến nhân dân thông qua đội ngũ cán bộ, đảng viên. Phẩm chất, năng lực của cán bộ, đảng viên được thể hiện trực tiếp qua phương pháp, phong cách làm việc, sinh hoạt. Nhân dân nghe cán bộ nói, nhìn cán bộ làm, quan sát cán bộ sống, từ đó xác định thái độ tôn trọng hay xem thường, tin tưởng hay không tin tưởng. Do vậy, rèn luyện, thực hành phương pháp, phong cách khoa học là công việc cần thiết, hệ trọng trong xây dựng văn hoá lãnh đạo - cầm quyền.

Phương pháp công tác của cán bộ, đảng viên, đặc biệt của cán bộ lãnh đạo, quản lý, được hình thành trên cơ sở học tập, vận dụng phương pháp luận mác xít, phép biện chứng duy vật; từ phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh; từ phương thức lãnh đạo của Đảng và từ sự trải nghiệm, đúc kết hoạt động thực tiễn. Đảng Cộng sản Việt Nam thường xuyên coi trọng việc bồi dưỡng phương pháp công tác cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Thông qua các lớp đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị dài hạn, ngắn hạn do Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, các trường chính trị của các tỉnh, thành phố, trung tâm bồi dưỡng chính trị của các quận, huyện; thông qua việc quán triệt, triển khai, sơ kết, tổng kết, thực hiện các nghị quyết, chủ trương của Đảng, các hội nghị, hội thảo, tọa đàm chuyên đề…, Đảng đã chú trọng bồi dưỡng, trang bị cho cán bộ, đảng viên, trước hết là đội ngũ cán bộ chủ chốt, phương pháp phân tích, đánh giá dự báo tình hình; phương pháp tổ chức, lãnh đạo triển khai thực hiện các nhiệm vụ chính trị, phương pháp chủ động xử lý các tình huống phát sinh từ thực tiễn…

Phương pháp dân chủ, thực hành dân chủ là nội dung thiết yếu trong phương pháp lãnh đạo - cầm quyền. Đảng Cộng sản Việt Nam đưa nội dung rèn luyện phương pháp dân chủ, thực hành dân chủ vào quá trình học tập, làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần tư tưởng cốt lõi: quyền lực thuộc về nhân dân, lợi ích thuộc về nhân dân; Đảng lãnh đạo nhưng nhân dân làm chủ, Đảng cầm quyền nhưng nhân dân là gốc, Đảng lãnh đạo, cầm quyền để nhân dân làm chủ. Từ nhận thức căn bản đó, người cán bộ, đảng viên phải hướng mọi hoạt động lãnh đạo, quản lý, từ xây dựng cơ chế, chính sách, đầu tư nguồn lực, phân phối lợi ích đến giải quyết công việc hằng ngày…, vào việc phục vụ nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân theo phương châm việc gì có lợi cho dân thì gắng sức làm, việc gì có hại cho dân thì hết sức tránh6.

Phong cách của người cán bộ, đảng viên được bộc lộ và phát huy ảnh hưởng đến nhân dân, đến cộng đồng ở mọi nơi, mọi lúc qua tác phong làm việc, ứng xử, sinh hoạt. Năm 2013, Đảng Cộng sản Việt Nam đang triển khai trong toàn Đảng chủ đề học tập, làm theo phong cách, tác phong quần chúng, dân chủ, nêu gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đảng yêu cầu cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, từ ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, ủy viên Trung ương Đảng đến cán bộ, đảng viên cơ sở phải đổi mới mạnh mẽ tác phong làm việc, sinh hoạt, ứng xử. Giảm bớt hội họp, tăng cường xuống cơ sở, tiếp xúc, đối thoại với dân, giải quyết tại chỗ những khó khăn, vướng mắc theo nguyện vọng, kiến nghị chính đáng của nhân dân; nói đi đôi với làm, nói ít làm nhiều, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm; trọng dân, gần dân, hiểu dân, tin dân, học dân; khiêm tốn, giản dị, lành mạnh, hoà đồng, nêu gương sáng trước nhân dân… đó là những chuẩn tắc cần có trong tác phong lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay.

6. Xây dựng văn hoá lãnh đạo - cầm quyền là sự nghiệp lâu dài, phức tạp, gian khổ, đòi hỏi Đảng phải kiên trì, dũng cảm, không ngừng nâng cao sức chiến đấu, giải quyết hiệu quả mối quan hệ giữa “xây” và “chống”

Văn hóa nói chung, văn hóa lãnh đạo - cầm quyền nói riêng là lĩnh vực nhạy cảm, tinh tế liên quan đến tư tưởng, tình cảm, tâm lý, lợi ích của con người, do vậy xây dựng, phát triển văn hóa lãnh đạo - quản lý không thể là công việc một sớm, một chiều, giản đơn, thuận buồm, xuôi gió. Đó là một quá trình lâu dài, phức tạp, một cuộc đấu tranh cam go giữa cái tiến bộ, mới mẻ, tốt đẹp với cái lạc hậu, cũ kỹ, xấu xa; vừa sáng tạo những giá trị văn hóa mới, vừa phải tỉnh táo, kiên trì, dũng cảm đấu tranh phòng ngừa, xóa bỏ những độc tố phi văn hóa, phản văn hóa.

Đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng tồn tại và hoạt động trong môi trường xã hội, vừa tác động tích cực đến quá trình xây dựng, lành mạnh hóa xã hội, vừa chịu sự tác động của môi trường xã hội theo cả hai chiều thuận, nghịch. Kinh tế thị trường phát triển, hội nhập quốc tế ngày càng mở rộng, đồng thời với những nhân tố tích cực cũng nảy sinh những nhân tố tiêu cực. Từ nhiều con đường, từ nhiều phương thức, lúc ồn ào, lộ liễu, lúc âm thầm, tinh vi, những mặt trái của kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế len lỏi, thâm nhập, tác động vào Đảng, vào đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là những người có chức, có quyền.

Trong bối cảnh đó, tuyệt đại đa số cán bộ, đảng viên bền bỉ rèn luyện, phấn đấu, giữ gìn phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, giữ vững danh hiệu đảng viên cộng sản. Tuy nhiên, một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ cấp cao, do thiếu tu dưỡng, rèn luyện, do bị tiền tài, địa vị, danh vọng cám dỗ, mê hoặc đã rơi vào vũng lầy chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng, vị kỷ, xa hoa, hưởng lạc. Một số người phai nhạt lý tưởng cách mạng, xa rời mục tiêu, đường lối, quan điểm của Đảng, vô cảm, thiếu trách nhiệm đối với công việc, với đồng chí, đồng bào; một số người đam mê, thao túng, lạm dụng quyền lực được Đảng, nhân dân giao cho, mắc bệnh quan liêu, độc đoán, chuyên quyền, bè phái, tham nhũng, lãng phí,... Những hiện tượng tiêu cực này đang làm tổn hại uy tín, sức mạnh của Đảng, làm hoen ố văn hóa lãnh đạo - cầm quyền của Đảng, làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Nhận thức sâu sắc nguy cơ này, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định đấu tranh khắc phục tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên là nhiệm vụ cấp bách có ý nghĩa sống còn của Đảng; chủ trương huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị, của nhân dân, của dư luận và công luận, kết hợp tuyên truyền, giáo dục với các biện pháp hành chính, tổ chức, tư pháp… kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đầy lùi vấn nạn này.

Đồng thời với nỗ lực xây dựng, bảo vệ Đảng trong sạch, vững mạnh, chống tha hóa, thoái hóa nội bộ, Đảng Cộng sản Việt Nam thường xuyên tiến hành cuộc đấu tranh không khoan nhượng chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực đế quốc, phản động, thù địch. Bằng những thủ đoạn tinh vi, ác độc, các thế lực thù địch chủ nghĩa xã hội, thù địch cách mạng Việt Nam đã và đang tiến hành cuộc chiến tranh tâm lý - thông tin, sử dụng các độc tố phản văn hóa tiến hành cuộc “xâm lăng văn hóa” nhằm chia rẽ nội bộ Đảng, chia rẽ nhân dân với Đảng, làm tha hóa đội ngũ cán bộ và thế hệ thanh, thiếu niên, tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thủ tiêu thành quả của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Vững vàng và tỉnh táo, chủ động và kiên quyết, Đảng Cộng sản Việt Nam, một mặt, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục chính trị - tư tưởng, xây dựng, phát triển văn hóa, tăng khả năng đề kháng và sức mạnh nội sinh của cán bộ, đảng viên, nhân dân; mặt khác, huy động sức mạnh tổng hợp của các binh chủng tư tưởng - văn hóa đấu tranh vạch trần những luận điệu xảo trá, lừa bịp, bản chất phản văn hóa, phản tiến bộ, làm thất bại những ý đồ đen tối của các thế lực chống đối.

*

*     *

Lãnh đạo toàn dân tộc phấn đấu xây dựng một chế độ xã hội hoàn toàn mới, ngày càng tốt đẹp hơn là trọng trách vẻ vang và nặng nề của Đảng Cộng sản. Đảng chỉ có thể hoàn thành được sứ mệnh cao cả đó một khi Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh. Sự trong sạch, vững mạnh của Đảng chỉ có được khi nào toàn bộ sự nghiệp của Đảng, đời sống của Đảng được đặt vững chắc trên nền tảng văn hóa - văn hóa lãnh đạo - cầm quyền.

GS.TS. Phùng Hữu Phú

Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Lý luận Trung ương

Trích trong “Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh trong tình hình mới - Kinh nghiệm Trung Quốc, kinh nghiệm Việt Nam”,

Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – Sự thật, 2013.

 

1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, 2012, tr. 89, 88

3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.12, tr. 403.

4, 5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 69, 81.

6. Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khoá XI về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới, ngày 3-6-2013.


Bình luận