Vai trò lãnh đạo của Đảng trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

Ngày đăng: 22/08/2016 - 15:08

Vai trò lãnh đạo của Đảng và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đối với Cách mạng Tháng Tám năm 1945 cần được nghiên cứu sâu sắc, tổng thể từ khi Đảng ra đời (đầu năm 1930), đặc biệt từ cao trào cách mạng giải phóng dân tộc 1939 - 1945. Tư tưởng nhất quán của Hồ Chí Minh là nêu cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, vì độc lập của Tổ quốc, tự do, hạnh phúc của đồng bào. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 11-1939) do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì đã đề ra quan điểm khẳng định tư tưởng đó và mở ra thời kỳ tập trung đấu tranh giải phóng dân tộc.

tranh tien vuong

Những năm 1938 - 1940, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc hoạt động cách mạng ở Trung Quốc và có những liên hệ để chỉ đạo phong trào ở trong nước. Đó là sự phối hợp lãnh đạo, chỉ đạo rất chặt chẽ, sáng tạo của Đảng và lãnh tụ. Đầu năm 1940, Đảng cử đồng chí Phạm Văn Đồng và đồng chí Võ Nguyên Giáp sang Trung Quốc tìm gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Đầu tháng 6-1940, đã diễn ra cuộc gặp gỡ có ý nghĩa đặc biệt giữa Nguyễn Ái Quốc với Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp tại Thúy Hồ, Côn Minh, Trung Quốc. Ngay sau đó, Nguyễn Ái Quốc đã cử các đồng chí đi học để chuẩn bị cho thời kỳ đấu tranh mới. Nguyễn Ái Quốc nhiều lần căn dặn Võ Nguyên Giáp “cố gắng học thêm quân sự”. Tuy nhiên, kế hoạch đi học đã không thực hiện được do những diễn biến mới của tình hình trong nước và Chiến tranh thế giới thứ hai, tình hình nước Pháp và việc quân phiệt Nhật đã tiến sát biên giới Việt-Trung và mưu toan chiếm Việt Nam và Đông Dương.

Ngày 16-6-1940, quân phát xít Đức đánh chiếm nước Pháp và tiến vào Thủ đô Pari bị bỏ ngỏ. Ngày 22-6-1940, nước Pháp đầu hàng quân Đức. Ngày 25-6-1940, Chính phủ Petain (Pê tanh) của nước Pháp cử Jean Decoux làm toàn quyền Đông Dương để củng cố vị thế của Pháp ở thuộc địa. Nguyễn Ái Quốc cho rằng, nước Pháp rơi vào tay quân Đức, lực lượng của Pháp ở các thuộc địa, trong đó có Đông Dương sẽ suy yếu, đây là cơ hội để ta đẩy mạnh đấu tranh giành độc lập, không thể chậm trễ. Ngày 27-9-1940, quân đội Nhật đánh vào Lạng Sơn chiếm Việt Nam và Đông Dương. Kẻ thù của cách mạng là Pháp và Nhật. Đảng bộ địa phương đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn để chống quân xâm lược Nhật, hình thành căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai và đội du kích Bắc Sơn (ngày 13-10-1940), từ lực lượng đó thành lập Trung đội Cứu quốc quân (ngày 23-2-1941) ở xã Vũ Lễ, châu Bắc Sơn. Sau khởi nghĩa Bắc Sơn (ngày 27-9-1940), khởi nghĩa Nam Kỳ (ngày 23-11-1940), phong trào đấu tranh vũ trang diễn ra sôi nổi ở nhiều nơi.

Ngày 28-1-1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước sau gần 30 năm hoạt động, làm việc ở nước ngoài. Người trở về Tổ quốc qua cột mốc 108 thuộc xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Những ngày đầu Xuân Tân Tỵ, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cùng các đồng chí Lê Quảng Ba, Phùng Chí Kiên, Hoàng Văn Lộc, Thế An, Đặng Văn Cáp nghỉ trong các gia đình đồng bào và ngày 8-2-1941, Người đến ở và làm việc tại hang Cốc Bó thuộc làng Pác Bó, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Với bí danh Già Thu, Người chỉ đạo công tác xây dựng các tổ chức yêu nước ở Cao Bằng; mở các lớp huấn luyện cán bộ; dịch cuốn Lịch sử Đảng Cộng sản (b) Liên Xô; biên soạn tài liệu Cách đánh du kích và chuẩn bị cho việc họp Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Khi đó các đồng chí Trung ương Đảng hoạt động ở dưới xuôi, ngoại thành Hà Nội.

Cùng với việc chuẩn bị nội dung đường lối để bàn tại Hội nghị Trung ương 8, Nguyễn Ái Quốc đã sớm có chủ trương xây dựng tổ chức Mặt trận thích hợp để tập hợp, giác ngộ quần chúng nhân dân. Vừa huấn luyện cán bộ, Người vừa tổ chức thí điểm các đoàn thể cứu quốc ở Cao Bằng.

Với tư cách là người sáng lập Đảng, là đại biểu Quốc tế Cộng sản, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập và chủ trì Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp từ ngày 10 đến ngày 19-5-1941 tại một lán nhỏ thuộc khu rừng Khuổi Nặm, làng Pác Bó, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Dự Hội nghị có các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Phùng Chí Kiên, Hạ Bá Cang (Hoàng Quốc Việt), Vũ Anh và một số đồng chí khác. Hội nghị nhất trí quan điểm giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc đã được Đảng nêu lên từ Hội nghị Trung ương lần thứ sáu (tháng 11-1939) và phát triển đường lối cách mạng giải phóng dân tộc; chú trọng xây dựng căn cứ địa cách mạng, phát triển lực lượng chính trị của quần chúng và xây dựng lực lượng vũ trang, đấu tranh vũ trang; khẳng định cách mạng sẽ kết thúc bằng cuộc khởi nghĩa vũ trang và quy luật là đi từ khởi nghĩa từng phần đến tổng khởi nghĩa giành thắng lợi; thúc đẩy phát triển lực lượng về mọi mặt, đồng thời nắm vững tình thế và thời cơ cách mạng; xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất lấy tên là Mặt trận Việt Minh (Việt Nam Độc lập đồng minh); tăng cường xây dựng Đảng, thống nhất mục tiêu, quan điểm, ý chí, hành động trong toàn Đảng. Cách mạng thành công sẽ xây dựng Nhà nước Cộng hòa Dân chủ Việt Nam. Hội nghị đã kiện toàn Ban Chấp hành Trung ương Đảng do đồng chí Trường Chinh làm Tổng Bí thư.

Sau Hội nghị Trung ương 8, các đồng chí Trung ương về xuôi nắm địa bàn Hà Nội, các đô thị và đồng bằng, chỉ đạo phong trào toàn quốc. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cùng một số đồng chí tiếp tục lãnh đạo phong trào từ Cao Bằng phát triển mạnh ra các tỉnh Việt Bắc và coi đó là căn cứ địa vững chắc của cách mạng giải phóng toàn dân tộc. Ngày 6-6-1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước đấu tranh cứu nước. Người nêu rõ: “Hiện thời muốn đánh Pháp, Nhật, ta chỉ cần một điều: toàn dân đoàn kết... Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi khỏi nước sôi lửa nóng”[1].

Với sự chỉ đạo của Trung ương Đảng và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, Mặt trận Việt Minh nhanh chóng phát triển về tổ chức. Ngày 25-10-1941, Mặt trận Việt Minh công bố Tuyên ngôn và Chương trình, Điều lệ. Chương trình cứu nước của Việt Minh gồm 44 điểm là hệ thống các chính sách nhằm cụ thể hóa đường lối của Đảng và tư tưởng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc nhằm làm cho đất nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập và dân Việt Nam được tự do, hạnh phúc.

Để tuyên truyền, cổ động cho sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, tại Cao Bằng, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sáng lập tờ báo Việt Nam độc lập, gọi tắt là Việt Lập. Ngày 1-8-1941, báo Việt Lập ra số đầu. Mục đích tờ báo làm cho dân biết các việc, biết đoàn kết đánh Tây, đánh Nhật, làm cho Việt Nam độc lập, bình đẳng, tự do. Cuối năm 1941 ở Cao Bằng xuất hiện nhiều xã, tổng hoàn toàn, nghĩa là toàn dân tham gia Việt Minh. Ngày 25-1-1942, báo Cứu quốc, cơ quan của Tổng bộ Việt Minh, ra số đầu kêu gọi các tầng lớp nhân dân đánh đuổi Pháp, Nhật. Ngày 10-10-1942, Trung ương Đảng xuất bản tờ báo Cờ giải phóng do Tổng Bí thư Trường Chinh phụ trách.

Tháng 2-1942, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc viết tác phẩm Lịch sử nước ta nhằm tuyên truyền nêu cao tinh thần yêu nước, truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc. Trong tác phẩm đó, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã có dự báo đặc biệt: “Năm 1945: Việt Nam độc lập”[2]. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc còn có những nhận định về sự phát triển của chiến tranh thế giới, về phong trào cách mạng thế giới và về vai trò của Liên Xô, những chiều hướng phát triển đó có ảnh hưởng và tác động sâu sắc đến cách mạng và sự nghiệp giải phóng của dân tộc Việt Nam. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đặc biệt coi trọng công tác tuyên truyền cách mạng và tổ chức lực lượng. Từ căn cứ Pác Bó - Hà Quảng, Nguyễn Ái Quốc và các đồng chí phát triển căn cứ ở Hòa An (căn cứ Lam Sơn) năm 1942.

Ngày 13-8-1942, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc lấy tên là Hồ Chí Minh đi Trung Quốc để liên lạc với những người Việt Nam yêu nước ở Trung Quốc và tranh thủ sự ủng hộ của các nước Đồng minh đối với cuộc đấu tranh chống thực dân, phát xít của dân tộc Việt Nam. Khi đó đã hình thành phe Đồng minh chống chủ nghĩa phát xít trên thế giới gồm Mỹ, Anh, Liên Xô, Trung Quốc và các nước đang đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít. Sang Trung Quốc, ngày 27-8-1942, lãnh tụ Hồ Chí Minh bị chính quyền Quốc dân Đảng bắt giam vì bị nghi là gián điệp. Không có chứng cứ kết tội nên ngày 10-9-1943, lãnh tụ Hồ Chí Minh được trả tự do.

Cuối tháng 9-1944, lãnh tụ Hồ Chí Minh về nước. Việc đầu tiên là Người chỉ thị chưa phát động chiến tranh du kích ở các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn. Sau khi nghe các đồng chí Võ Nguyên Giáp và Vũ Anh báo cáo, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã cho rằng, hiện nhiều nơi phong trào còn yếu, cán bộ, vũ khí còn phân tán, chưa đủ lực lượng nòng cốt. Trong tình hình đó, nếu phát động chiến tranh du kích quy mô lớn, địch sẽ tập trung đàn áp, phong trào thất bại sẽ có ảnh hưởng xấu. Cần đẩy mạnh đấu tranh chính trị, lúc này chính trị vẫn trọng hơn quân sự, khi phong trào đủ mạnh sẽ đẩy mạnh phong trào đi tới đấu tranh vũ trang. Hồ Chí Minh nêu ra phương châm kết hợp đấu tranh chính trị với quân sự để tạo điều kiện tiến tới khởi nghĩa. Tháng 10-1944, lãnh tụ Hồ Chí Minh có Thư gửi đồng bào toàn quốc. Người nêu rõ: “Phe xâm lược gần đến ngày bị tiêu diệt. Các Đồng minh quốc sắp tranh được sự thắng lợi cuối cùng. Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp. Ta phải làm nhanh!”[3].

Ngày 22-12-1944, lãnh tụ Hồ Chí Minh ra Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và giao cho đồng chí Võ Nguyên Giáp lãnh đạo. Người nêu rõ hoạt động của Đội: Chính trị trọng hơn quân sự và về quân sự, nguyên tắc chính là nguyên tắc tập trung lực lượng. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Vì cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến của toàn dân cần phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân, cho nên trong khi tập trung lực lượng để lập một đội quân đầu tiên, cần phải duy trì lực lượng vũ trang trong các địa phương cùng phối hợp hành động và giúp đỡ về mọi phương diện. Đội quân chủ lực trái lại có nhiệm vụ dìu dắt cán bộ vũ trang của các địa phương, giúp đỡ huấn luyện, giúp đỡ vũ khí nếu có thể được, làm cho các đội này trưởng thành mãi lên”2. Đó là tư tưởng đặc sắc của Hồ Chí Minh về quân sự và xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang có tác động trực tiếp tới thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và các cuộc kháng chiến sau này.

Lãnh tụ Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh chỉ đạo phát triển phong trào cách mạng trong nước, đồng thời Người rất chú trọng các mối quan hệ quốc tế, tranh thủ phối hợp và ủng hộ của các nước Đồng minh để chống quân phiệt Nhật. Đầu năm 1945, lãnh tụ Hồ Chí Minh có chuyến đi Trung Quốc để liên hệ với các lực lượng Đồng minh. Trong chuyến đi đó, Người đã trao trả Trung úy phi công Mỹ Shaw (Sơ) (nhảy dù xuống Việt Bắc khi máy bay bị quân Nhật bắn rơi) cho Cơ quan yểm trợ không quân trên bộ của Mỹ (Air Ground Aid Service - A.G.A.S) tại Côn Minh (Trung Quốc). Hồ Chí Minh khẳng định với các nước Đồng minh, Việt Nam đứng về phe Đồng minh chống phát xít.

Những tháng đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới thứ hai phát triển nhanh và lực lượng Đồng minh đã nắm chắc thắng lợi. Tình hình trong nước có những biến chuyển mạnh mẽ. Nạn đói, hậu quả của chính sách vơ vét, bóc lột tàn ác của Pháp, Nhật đã đẩy dân tộc Việt Nam vào tình cảnh khốn cùng và cũng làm cho mâu thuẫn và ý chí đấu tranh đòi quyền sống trở nên mãnh liệt. Ngày 9-3-1945, phát xít Nhật làm đảo chính gạt bỏ Pháp và độc chiếm Việt Nam và cả Đông Dương. Kẻ thù chủ yếu của cách mạng Việt Nam là phát xít Nhật. Ngày 12-3-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng và ra bản Chỉ thị lịch sử: Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta, phát động cao trào kháng Nhật, cứu nước, thúc đẩy những điều kiện khởi nghĩa giành chính quyền phát triển. Sau khi bị Nhật đánh đổ ở Đông Dương, thực dân Pháp vẫn nuôi tham vọng trở lại và không từ bỏ lợi ích ở Việt Nam và Đông Dương. Ngày 24-3-1945, tướng Charles De Gaulle (Đờ Gôn) đã ra bản tuyên bố về Đông Dương tỏ rõ lập trường áp đặt trở lại sự cai trị ở Đông Dương, lập Liên bang Đông Dương trong Khối Liên hiệp Pháp sau khi Nhật thất bại.

Ngày 9-5-1945, Hồng quân Liên Xô và lực lượng Đồng minh chiến thắng phát xít Đức và kết thúc chiến tranh ở châu Âu. Số phận của quân phiệt Nhật Bản ở châu Á không tránh khỏi thất bại. Để kịp thời nắm bắt tình hình cách mạng trong nước và diễn biến quốc tế, đầu tháng 5-1945, lãnh tụ Hồ Chí Minh rời Cao Bằng và đặt căn cứ chỉ đạo cách mạng ở Tân Trào (Tuyên Quang). Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh đã quyết định thống nhất các lực lượng vũ trang thành lập Việt Nam Giải phóng quân (ngày 15-5-1945). Thành lập Khu giải phóng Việt Bắc (ngày 4-6-1945) gồm sáu tỉnh: Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên và lập nhiều chiến khu. Lãnh tụ Hồ Chí Minh tiếp tục tranh thủ sự giúp đỡ của các nước Đồng minh. Ngày 16-7-1945, một nhóm tình báo của OSS (Mỹ) do Thomas chỉ huy gồm 7 người gọi là Toán Deer (Con Nai) nhảy dù xuống làng Kim Lũng (Tuyên Quang) với nhiệm vụ phối hợp với Việt Minh đánh Nhật.

Hội nghị các nhà lãnh đạo Liên Xô, Hoa Kỳ và Anh họp ở Pôxđam (Đức) ngày 24-7-1945 đã thỏa thuận và quyết định phân chia chiến trường Đông Dương trong cuộc chiến chống Nhật. Bắc vĩ tuyến 16 thuộc chiến trường Trung Quốc do Bộ Tư lệnh Trung - Mỹ chỉ huy; phía Nam vĩ tuyến 16 thuộc chiến trường Đông Nam Á do tư lệnh Anh chỉ huy. Đó cũng là khu vực mà quân Trung Quốc (Tưởng Giới Thạch) và quân Anh sẽ giải giáp quân Nhật khi Nhật đầu hàng Đồng minh. Cuộc chiến chống Nhật ở châu Á diễn ra quyết liệt. Ngày 6-8-1945, Mỹ ném bom nguyên tử xuống thành phố Hirôshima (Nhật Bản). Liên Xô tuyên chiến với Nhật Bản (ngày 8-8-1945) và nhanh chóng tiêu diệt 1 triệu quân Quan Đông của Nhật ở chiến trường Mông Cổ và Đông Bắc Trung Quốc. Ngày 9-8-1945, Mỹ lại ném bom nguyên tử xuống thành phố Nagasaki (Nhật Bản).

Phong trào cách mạng trong nước Việt Nam diễn ra với sức mạnh mới trên khắp các địa bàn đô thị, nông thôn, rừng núi, ở cả Bắc, Trung, Nam. Lãnh tụ Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng, Tổng bộ Việt Minh đã sớm chủ trương triệu tập Hội nghị Đảng toàn quốc và Đại hội quốc dân. Hội nghị Đảng toàn quốc họp từ ngày 14-8-1945 ở Tân Trào (Tuyên Quang) đã quyết định Tổng khởi nghĩa trên cả nước. Đại hội Quốc dân Tân Trào họp từ ngày 16-8 đã lập Ủy ban Dân tộc giải phóng. Đó là những quyết định lịch sử quyết định thắng lợi ở chính thời điểm Nhật tuyên bố đầu hàng (ngày 14-8-1945). Không thể sớm hơn khi Nhật chưa đầu hàng và không muộn hơn khi quân Đồng minh đã kéo vào để chấp nhận sự đầu hàng của Nhật.

Tháng 8-1945, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã có thư kêu gọi tổng khởi nghĩa. Người nêu rõ: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”[4]. Ở thời điểm lịch sử đó, lãnh tụ Hồ Chí Minh với tầm nhìn và nhãn quan chính trị sâu sắc đã tỏ rõ quyết tâm chiến lược nhằm tranh thủ cơ hội thuận lợi và đẩy lùi nguy cơ. Người đã nói với đồng chí Võ Nguyên Giáp: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh đến đâu, dù phải đốt cháy cả Trường Sơn, cũng kiên quyết giành cho được độc lập”[5].

Thời cơ cách mạng đã đến khi những điều kiện chủ quan và khách quan đã chín muồi. Một là, phong trào cách mạng và yêu nước của nhân dân Việt Nam chống ách cai trị của Nhật đã phát triển đến đỉnh cao trên khắp cả nước, ở tất cả các vùng, miền, các tầng lớp nhân dân. Giành độc lập, giành chính quyền trở thành vấn đề cốt tử của cách mạng và dân tộc. Nhân dân Việt Nam không thể sống trong sự áp bức, bóc lột đến cùng cực của chế độ thực dân, phát xít và chính quyền phong kiến tay sai nước ngoài. Hai là, phát xít Nhật, kẻ thù trực tiếp của cách mạng Việt Nam, đã đầu hàng Đồng minh (ngày 14-8-1945); chế độ phong kiến tay sai đã suy tàn và Chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim do Nhật dựng lên đã hoang mang, mâu thuẫn và lâm vào khủng hoảng. Ba là, Đảng và Mặt trận Việt Minh đã lớn mạnh, không những chủ động về đường lối, chủ trương và sự chỉ đạo thực tế mà còn có tổ chức và lực lượng rộng khắp trong cả nước, sẵn sàng và chủ động đưa quần chúng nhân dân vào hành động cách mạng.

Nắm chắc thời cơ, quyết tâm giành thắng lợi, lãnh tụ Hồ Chí Minh và Đảng ta cũng thấy rõ những nguy cơ. Nếu không hành động theo nguyên tắc: Tập trung - thống nhất - kịp thời, để chậm trễ thì các nguy cơ sẽ cản trở, khó giành thắng lợi và tình hình sẽ diễn biến rất khó khăn, phức tạp. Các nguy cơ đó là: Lợi dụng Nhật thất bại, quân Pháp sẽ nhanh chóng quay lại Việt Nam, Đông Dương để thiết lập lại vị trí thống trị như trước ngày 9-3-1945 (ý đồ đó của Pháp đã lộ rõ từ bản tuyên bố ngày 24-3-1945 của Đờ Gôn); quân Đồng minh (Tưởng Giới Thạch và Anh) kéo vào giải giáp quân Nhật sẽ chiếm đóng lâu dài và thực hiện ý đồ cai trị các vùng đất của Việt Nam và Đông Dương. Đó là những nguy cơ thực tế rất phức tạp và nguy hiểm. Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh với sự nhạy cảm đặc biệt về chính trị đã có những quyết sách kịp thời, tranh thủ cao nhất những thuận lợi, đẩy lùi nguy cơ, đưa sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc đến thắng lợi nhanh nhất, trọn vẹn và ít tổn thất.

Nghị quyết Hội nghị Đảng toàn quốc họp ở Tân Trào nêu rõ:

“Chính sách của chúng ta là phải tránh cái trường hợp một mình đối phó với nhiều lực lượng Đồng minh (Tàu, Pháp, Anh, Mỹ) tràn vào nước ta và đặt chính phủ của Pháp Đờ Gôn hay một chính phủ bù nhìn khác trái với ý nguyện dân tộc.

Bởi vậy cần tranh thủ sự đồng tình của Liên Xô và Mỹ chống lại mưu mô của Pháp định khôi phục địa vị cũ ở Đông Dương và mưu mô của một số quân phiệt Tàu định chiếm nước ta”[6].

Trên thực tế, ý đồ của Pháp khôi phục địa vị cũ ở Đông Dương đã được Mỹ và Anh ủng hộ. Ngày 22-8-1945, tướng De Gaulle đến Washington gặp Tổng thống Mỹ Harry Truman và Chính phủ Hoa Kỳ chính thức thừa nhận chủ quyền của Pháp ở Đông Dương. Ngày 24-8-1945, Chính phủ Anh ký với Chính phủ Pháp về các nguyên tắc, thể thức khôi phục quyền lực của Pháp ở Đông Dương. Ngày 22-8-1945, đại diện Mỹ trong lực lượng Đồng minh gồm A. Patti và 12 nhân viên OSS từ Côn Minh (Trung Quốc) tới Hà Nội. Cùng đi còn có 4 người Pháp do Jean Sainteny dẫn đầu. Ngày 22 và ngày 23-8-1945, hai máy bay của lực lượng hoàng gia Anh thả dù hai toán người Pháp xuống Sài Gòn và Bắc Kỳ. Cũng ngày 22-8-1945, những đơn vị đầu tiên của tướng Long Vân (chính quyền Tưởng Giới Thạch) đã vượt biên giới vào Đông Dương với Tiêu Văn là Phó Tư lệnh và Lư Hán là Cố vấn chính trị. Cuối tháng 8-1945, quân đội Tưởng Giới Thạch triển khai kế hoạch “Hoa quân nhập Việt”.

Hưởng ứng lời kêu gọi của lãnh tụ Hồ Chí Minh, thực hiện nghị quyết của Đảng và với sức mạnh đoàn kết trong Mặt trận Việt Minh, đồng bào cả nước dưới sự lãnh đạo của các tổ chức đảng ở địa phương và cơ sở đã chạy đua với thời gian để giành độc lập cho dân tộc, giành chính quyền về tay nhân dân.

Khi cuộc tổng khởi nghĩa đang diễn ra dồn dập trên cả nước, ngày 23-8-1945, lãnh tụ Hồ Chí Minh từ Tân Trào về đến Hà Nội tại Phú Gia - Từ Liêm, ngoại thành Hà Nội. Lần đầu tiên Người đến Hà Nội. Ngày 25-8, các đồng chí lãnh đạo đón Người vào nội thành. Lãnh tụ Hồ Chí Minh ở và làm việc tại số nhà 48 phố Hàng Ngang. Chủ nhà là ông bà Trịnh Văn Bô và Hoàng Thị Minh Hồ - một thương gia lớn và gia đình là cơ sở cách mạng. Tại đây, Hồ Chí Minh đã soạn thảo Tuyên ngôn độc lập cùng với Trung ương Đảng và các đồng chí lãnh đạo Hà Nội chuẩn bị mọi mặt cho ngày lễ tuyên bố độc lập. Theo chủ trương của Đảng và Hồ Chí Minh, phải chuẩn bị tốt nhất cho sự kiện trọng đại này. Từ những tỉnh khởi nghĩa đầu tiên ngày 18-8-1945 như Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Quảng Nam, Mỹ Tho đến Hà Nội (19-8), Huế (23-8), Sài Gòn (25-8) và Đồng Nai Thượng, Hà Tiên (28-8), cuộc Tổng khởi nghĩa đã hoàn thành thắng lợi trên cả nước.

Ngày 28-8-1945, tại Hà Nội, Ủy ban Dân tộc giải phóng được Đại hội quốc dân Tân Trào cử ra để lãnh đạo tổng khởi nghĩa, được cải tổ thành Chính phủ lâm thời gồm 15 thành viên do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Một số đồng chí lãnh đạo của Đảng đã tự nguyện không tham gia Chính phủ lâm thời để các nhân sĩ, trí thức tham gia Chính phủ. Đó là nghĩa cử cao đẹp được Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá cao và cũng thể hiện chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Đảng và Hồ Chí Minh. Ngày 30-8-1945, vua Bảo Đại tuyên bố thoái vị, chấm dứt chế độ quân chủ, phong kiến kéo dài hàng ngàn năm.

Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội đã diễn ra lễ trọng thể mừng đất nước độc lập. Thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố trước quốc dân và thế giới sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bản Tuyên ngôn đã từ phát triển của lịch sử khẳng định quyền con người và nâng lên thành quyền thiêng liêng của các dân tộc. “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”[7]. Đó là tư tưởng đặc sắc của Hồ Chí Minh có ý nghĩa sâu sắc về lý luận và về chính trị - thực tiễn. Đó là nguyên tắc mà tất cả các nước trên thế giới cần phải tôn trọng.

Hồ Chí Minh nhấn mạnh cơ sở thực tế và pháp lý của nền độc lập và Nhà nước cách mạng Việt Nam. “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa”, “Chúng tôi tin rằng các nước Đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các hội nghị Têhêrăng và Cựu Kim Sơn, quyết không thể không nhận quyền độc lập của dân Việt Nam”2.

Cách mạng Tháng Tám thắng lợi đã mở ra thời đại mới của lịch sử dân tộc - thời đại Hồ Chí Minh. Đó là thời đại độc lập của Tổ quốc, nhân dân được tự do, được làm chủ xã hội, đất nước và cuộc sống và quá độ tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng trong Cách mạng Tháng Tám trước hết là sự phát triển hoàn chỉnh đường lối giải phóng dân tộc, kết hợp đúng đắn lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp. Đảng chú trọng xây dựng căn cứ địa cách mạng, xây dựng lực lượng chính trị làm cơ sở phát triển lực lượng vũ trang. Đảng xây dựng và phát triển khối đại đoàn kết trong Mặt trận Việt Minh, tạo nên sức mạnh to lớn của nhân dân với ý chí tự lực tự cường. Đảng chủ động nắm bắt thời cơ để hành động kịp thời và thống nhất. Theo sát diễn biến của Chiến tranh thế giới và hàng ngũ kẻ thù để có quyết định thích hợp. Phát huy tính chủ động, sáng tạo của các đảng bộ địa phương. Những quyết định của Xứ ủy Bắc Kỳ, Thành ủy Hà Nội, Xứ ủy Trung Kỳ và Xứ ủy Nam Kỳ, các tổ chức Đảng và trách nhiệm của đảng viên của Đảng đã nhanh chóng hiện thực hóa những quyết sách của Đảng.

PGS.TS. Nguyễn Trọng Phúc*

Trích trong cuốn "Cách mạng Tháng Tám 1945

với sự nghiệp đổi mới, hội nhập và phát triển"

Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2016


* Viện Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

[1]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.230.

[2]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.267.

[3], 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.538, 539.

[4]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.596.

[5]. Bác Hồ sống mãi với chúng ta (Hồi ký), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t.1, tr.181.

[6]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.7, tr.427.

[7], 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.1, 3.

Bình luận