Triển khai đường lối đối ngoại và hội nhập quốc tế nhìn từ Đại hội XII của Đảng

Ngày đăng: 08/09/2016 - 11:09

Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo sau 30 năm đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Góp phần quan trọng vào những thành tựu đó có hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế. Chính vì vậy, Đại hội XII bổ sung thành tố: “bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định”1 vào chủ đề của Đại hội.

doi moi-hoinhap-quocte

Ảnh minh họa

1. Những thành tựu cơ bản trong triển khai đường lối và chính sách đối ngoại, hội nhập quốc tế

Thứ nhất, phá được thế bao vây cấm vận; tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, thuận lợi cho phát triển đất nước. Việt Nam đã mở cửa và bước đầu hội nhập thành công vào khu vực và thế giới; có quan hệ bình thường với tất cả các nước lớn và hầu hết các nước trên thế giới; gia nhập hầu hết các tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng; trở thành một thành viên có vai trò quan trọng trong ASEAN; lần đầu tiên đảm nhiệm thành công vị trí và vai trò Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008-2009. Vị trí của nước ta trong chính sách khu vực của các đối tác ngày càng được coi trọng hơn. Chính nhờ môi trường quốc tế hòa bình và thuận lợi mà nước ta đã huy động được các nguồn lực to lớn phục vụ cho phát triển đất nước.

Thứ hai, củng cố và tăng cường quan hệ với các nước láng giềng; kiên quyết và kiên trì đấu tranh giữ vững chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Quan hệ đoàn kết hữu nghị đặc biệt giữa Việt Nam và Lào tiếp tục được lãnh đạo và nhân dân hai nước củng cố và có những bước phát triển tốt đẹp, ngày càng mở rộng, đi vào chiều sâu và có hiệu quả, đặc biệt là quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư. Quan hệ Việt Nam - Campuchia không ngừng được củng cố và phát triển về mọi mặt. Hai bên đã nhất trí phương châm phát triển quan hệ hai nước trong thời kỳ mới theo hướng “láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài”. Quan hệ với Trung Quốc có nhiều bước phát triển kể từ khi bình thường hóa; quan hệ kinh tế - thương mại phát triển nhanh chóng; đã phân giới cắm mốc xong trên thực địa toàn tuyến biên giới; đã phê chuẩn Hiệp định phân định và Hiệp định hợp tác nghề cá ở vịnh Bắc Bộ; đã thỏa thuận thiết lập quan hệ “Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện”. Trong bối cảnh tình hình trên Biển Đông có nhiều diễn biến phức tạp, có lúc rất căng thẳng, chúng ta đã xử lý thỏa đáng các vấn đề nảy sinh, kiên trì và kiên quyết bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của mình, đồng thời giương cao ngọn cờ hòa bình và công lý, chủ trương thông qua các biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982; kiên trì tôn trọng thỏa thuận giữa ASEAN và Trung Quốc về cách ứng xử trên biển Đông (DOC), nỗ lực cùng các nước liên quan xây dựng Bộ quy tắc ứng xử (COC) thực sự có hiệu lực trong việc quản lý tranh chấp và ngăn ngừa xung đột ở Biển Đông.

Thứ ba, bình thường hóa, thiết lập quan hệ ổn định, lâu dài với các nước, nhất là các nước lớn, tiếp tục đưa các mối quan hệ đi vào chiều sâu. Đã có những bước phát triển quan trọng trong quan hệ với Hoa Kỳ kể từ sau bình thường hóa quan hệ (1995); quan hệ kinh tế phát triển nhanh; quan hệ an ninh, quân sự từng bước được thiết lập; hợp tác về khoa học kỹ thuật, giáo dục, y tế, lao động, văn hóa, v.v. được mở rộng. Chúng ta cũng đã phát triển quan hệ với các nước, các trung tâm chính trị - kinh tế lớn của thế giới theo các khuôn khổ phù hợp. Tuy nhiên, chúng ta cũng kiên quyết đấu tranh chống lại các hoạt động của các thế lực núp dưới chiêu bài “dân chủ, nhân quyền” để can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam.

Thứ tư, tăng cường hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực, từng bước chủ động và tích cực hội nhập quốc tế một cách sâu rộng. Đã tạo nên được những chuyển biến lớn về tư duy của cả chính quyền, doanh nghiệp và xã hội, tạo nên những động lực quan trọng để thúc đẩy sự nghiệp đổi mới; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hệ thống luật pháp ngày càng được hoàn thiện; đã có nhiều điều chỉnh về chính sách theo các chuẩn mực quốc tế, nhờ đó nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.

Mở rộng đáng kể thị trường, tranh thủ được khối lượng lớn vốn đầu tư, tri thức, công nghệ mới và các nguồn lực quan trọng khác, đóng góp tích cực vào tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại; phát triển được nhiều ngành, sản phẩm, doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh, phục vụ tốt yêu cầu phát triển kinh tế và cải thiện được vị thế của Việt Nam trên bản đồ kinh tế của khu vực và thế giới.

Gia nhập hầu hết các tổ chức khu vực và quốc tế quan trọng, mở rộng hợp tác về chính trị, quốc phòng, an ninh và các lĩnh vực khác; từng bước khẳng định được hình ảnh và vị thế của một quốc gia tích cực và có trách nhiệm; tăng cường sự hiểu biết của cộng đồng quốc tế về văn hóa, con người và đất nước Việt Nam; đóng góp tích cực cho duy trì, bảo vệ môi trường hòa bình chungthông qua các cơ chế, diễn đàn an ninh quốc tế và khu vực, thông qua xây dựng các chuẩn mực, quy tắc ứng xử chung quốc tế và khu vực; được bầu vào Hội đồng Nhân quyền của Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2014-2016 với số phiếu rất cao; trúng cử và lần đầu tiên trở thành thành viên Ủy ban Di sản thế giới - một cơ quan có uy tín của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO).

Sau 30 năm đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế và gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới - WTO (2006) và gần đây là tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), Việt Nam đã tận dụng được cơ hội và thu được nhiều thành tựu quan trọng.

Một là, mở rộng được thị trường xuất nhập khẩu và đối tác thương mại. Tính đến năm 2015, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 185 nước trong số 193 nước thành viên Liên hợp quốc, thiết lập quan hệ “đối tác chiến lược” với 13 nước, quan hệ “đối tác chiến lược trên một số lĩnh vực” với 2 nước, quan hệ “đối tác toàn diện” với 11 nước. Trong số các đối tác trên, có tất cả 5 nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc2. Cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu cũng có sự chuyển dịch mạnh theo hướng tỷ lệ các nông sản thô, nguyên nhiên liệu giảm mạnh và tỷ lệ các mặt hàng công nghiệp và chế biến tăng.

Xuất hiện một số doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghệ cao như: viễn thông, sản xuất linh kiện điện tử, dịch vụ ngân hàng bảo hiểm có đẳng cấp quốc tế. Điều này cho thấy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế góp phần thúc đẩy thêm sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Việt Nam trong thời gian qua theo hướng công nghiệp hóa ngày càng cao hơn.

Hai là, bổ sung hệ thống pháp luật và hoàn thiện thể chế kinh tế. Trong 5 năm, Việt Nam đã sửa và xây dựng 86 luật để tạo điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Với sự ra đời Luật đầu tư nước ngoài, từng bước điều chỉnh luật lệ, cơ chế, chính sách, Việt Nam đã và đang tạo lập môi trường pháp lý cho lĩnh vực đầu tư, kinh doanh. Môi trường này đã được cải thiện nhiều, ngày càng thuận lợi hơn đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước.

Đối với nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), nếu như tính đến cuối năm 2005, chúng ta mới chỉ thu hút được tổng số hơn 70 tỉ USD vốn đăng ký, thì sau khi gia nhập WTO, FDI vào Việt Nam đã tăng vọt từ 12 tỉ USD năm 2006 lên 21 tỉ USD năm 2007 và 64 tỉ USD năm 2008 (tổng số vốn FDI đăng ký trong 3 năm sau đã vượt 1,3 lần so với tổng số vốn FDI thu hút được của tất cả các năm trước đó cộng lại). Đại hội XII của Đảng đánh giá: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài phục hồi, vốn đăng ký giai đoạn 2011-2015 đạt 99 tỉ USD, thực hiện đạt 60,5 tỉ USD. Vốn ODA ký kết khoảng 27,8 tỉ USD, giải ngân khoảng 22,3 tỉ USD, đóng góp quan trọng vào phát triển kết cấu hạ tầng”3.

Ba là, tiếp thu công nghệ mới và đào tạo nguồn nhân lực. Hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo cơ hội và động lực cho các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận, áp dụng những thành tựu mới nhất của khoa học công nghệ. Nhiều công nghệ hiện đại, dây chuyền sản xuất tiên tiến được áp dụng, tạo ra bước phát triển mới trong các ngành sản xuất. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần đào tạo cán bộ trên nhiều lĩnh vực. Hàng vạn lao động trực tiếp, cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý,… được đào tạo và trưởng thành có thể tiếp cận và chuyển giao thành công các công nghệ nước ngoài đầu tư vào Việt Nam.

Bốn là, từng bước đưa doanh nghiệp và cả nền kinh tế bước vào môi trường cạnh tranh. Hội nhập kinh tế quốc tế buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải đối diện với sự cạnh tranh ở cả thị trường trong nước lẫn ngoài nước, sức ép này buộc nhiều doanh nghiệp Việt Nam phải đổi mới công nghệ, đổi mới quản lý, nâng cao năng suất và chất lượng, xây dựng thương hiệu, chữ tín nhằm không ngừng vươn lên trong cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Hiện nay, nhiều mặt hàng của Việt Nam được đánh giá có sức cạnh tranh quốc tế. Một số doanh nghiệp đã đầu tư hoạt động ở nước ngoài như: Viettel, Petro Vietnam, Hoàng Anh Gia Lai, cà phê Trung Nguyên, Vinamilk,… Thị trường chủ yếu là Lào, Nga, Xingapo, Campuchia, Anh, Ấn Độ, Đài Loan,…

Năm là, duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao và tương đối ổn định, góp phần cải thiện đời sống của nhân dân. Thu nhập bình quân đầu người trước đây chưa đến 100 USD (năm 1990), năm 2005 đạt 640 USD, năm 2010 đạt 1.168 USD. Đến Đại hội XII của Đảng, “tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân 5 năm đạt trên 5,9%/năm. Quy mô và tiềm lực của nền kinh tế tiếp tục tăng lên; GDP năm 2015 đạt 193,4 tỷ USD, GDP bình quân đầu người đạt khoảng 2.109 USD”4.

Sáu là, góp phần củng cố hệ thống chính trị - an ninh - quốc phòng ở Việt Nam. Hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế - nền tảng của hệ thống chính trị xã hội, giúp củng cố hệ thống chính trị và nâng cao uy tín, vai trò của Đảng và Nhà nước, làm cho vị thế và vai trò quốc tế của Việt Nam được tăng cường. Mặt khác, hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế, tạo nền tảng để bảo đảm an ninh và quốc phòng, tạo điều kiện tốt hơn để thực hiện các chương trình xã hội như: xóa đói giảm nghèo, phát triển vùng sâu, vùng xa.

Như vậy, với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, sáng tạo và kịp thời của Đảng và Nhà nước ta, kinh tế và xã hội Việt Nam đã gặt hái được những thành công nhất định cả về nhận thức và các chỉ tiêu đo lường kết quả.

Đánh giá những thành tựu của công tác đối ngoại nhiệm kỳ Đại hội XI (2010-2015), Văn kiện Đại hội XII của Đảng khẳng định những thành tựu quan trọng, nổi bật là: Thứ nhất, “môi trường hòa bình thuận lợi cho phát triển, độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ tiếp tục được giữ vững”. Thứ hai, “quan hệ đối ngoại được mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu. Quan hệ với các nước láng giềng và các nước trong ASEAN được củng cố”. Thứ ba, “hội nhập quốc tế được đẩy mạnh, góp phần quan trọng vào việc tăng cường nguồn lực cho phát triển, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Thứ tư, “chủ động, tích cực tham gia các công việc chung của cộng đồng quốc tế, các diễn đàn, tổ chức khu vực và quốc tế, nâng cao vị thế của đất nước”. Thứ năm, “đối ngoại của Đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân được triển khai đồng bộ, hiệu quả, có bước phát triển mới”5. Trên tinh thần đó, Đại hội XII của Đảng xác định nhiệm vụ trong 5 năm tới 2016-2020 là: “nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế, giữ vững môi trường hòa bình và tạo điều kiện thuận lợi để phát triển đất nước”6.

2. Một số hạn chế trong triển khai đường lối đối ngoại, hội nhập quốc tế và vấn đề đặt ra

Về hạn chế trong công tác đối ngoại thuộc nhiệm kỳ Đại hội XI (2010-2015), Đại hội XII của Đảng chỉ rõ bốn điểm: Thứ nhất, “chưa có giải pháp đồng bộ, hữu hiệu để hạn chế những tác động tiêu cực trong quá trình đẩy mạnh hội nhập quốc tế”. Thứ hai, “trong nhận thức và chỉ đạo thực tiễn có lúc chưa theo kịp những chuyển biến mau lẹ, phức tạp của tình hình thế giới và khu vực”. Thứ ba, “sự phối hợp, kết hợp giữa các ngành, các địa phương còn thiếu chặt chẽ”. Thứ tư, “công tác nghiên cứu chiến lược, dự báo tình hình còn hạn chế”7.

Thực tiễn triển khai đường lối và chính sách đối ngoại, hội nhập quốc tế của Đảng thời kỳ đổi mới, đặt ra một số vấn đề:

Một là, cần nhìn nhận thế giới một cách khách quan, biện chứng. Cần phải có nhận thức khoa học và luôn luôn thay đổi linh hoạt về thế giới để từ đó có những chiến lược, sách lược phù hợp, phục vụ tốt nhất cho lợi ích quốc gia, dân tộc. Trong suốt thời kỳ đổi mới, Đảng đã vận dụng rất thành công bài học này. Trong bối cảnh biến đổi ngày càng phức tạp của môi trường quốc tế hiện nay, đây là bài học cần hết sức lưu ý, chú trọng.

Hai là, gắn dân tộc với quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để có thể lấy yếu thắng mạnh, lấy ít địch nhiều, lấy nhỏ thắng lớn - đặc trưng của đối ngoại nước ta nói chung và đối ngoại thời kỳ đổi mới nói riêng.

Ba là, huy động sức mạnh tổng hợp là một truyền thống của đối ngoại nước ta và cần được vận dụng sáng tạo, hiệu quả trong thời kỳ đổi mới. Việc huy động và củng cố sức mạnh vật chất luôn được kết hợp chặt chẽ với việc huy động và phát huy sức mạnh tinh thần; sức mạnh tự thân luôn được kết hợp với sự đồng tình, ủng hộ của bạn bè quốc tế; kết hợp chặt chẽ các binh chủng và lĩnh vực của đối ngoại; đặc biệt chú trọng đến sự đồng thuận, thống nhất trong tất cả các quá trình, từ điều hành cho tới triển khai các hoạt động đối ngoại.

Bốn là, kiên định về nguyên tắc, linh hoạt về sách lược. Chúng ta đã kiên trì nguyên tắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, và mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đồng thời, linh hoạt, mềm dẻo nhưng kiên quyết trong phương cách bảo đảm những nguyên tắc bất di bất dịch ấy.

Năm là, nắm vững thời cơ, giành thắng lợi từng bước. Chúng ta đã mở đầu bằng việc phá thế bao vây, cô lập, cấm vận, bình thường hóa quan hệ với các nước; tiến tới đa dạng hóa, đa phương hóa nhằm mở rộng quan hệ đối ngoại; tiếp đó đưa các mối quan hệ đi vào chiều sâu, thiết lập các khuôn khổ hợp tác bền vững. Trong hội nhập, chúng ta mở đầu bằng việc gia nhập ASEAN, sau đó tiến lên gia nhập các tổ chức khu vực rộng lớn hơn là ASEM (1996), APEC (1998), gia nhập WTO - một tổ chức toàn cầu (2006) và đang trong quá trình tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Từ hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta đã từng bước mở rộng hội nhập trong các lĩnh vực khác, từ chính trị, quốc phòng, an ninh đến các lĩnh vực văn hóa, xã hội, khoa học, công nghệ, giáo dục - đào tạo.

Trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực diễn biến rất nhanh, phức tạp, khó lường, đất nước ta đã và đang đứng trước nhiều vấn đề mới, có cả những thuận lợi, thời cơ đan xen với những khó khăn, thách thức gay gắt. phát huy truyền thống đối ngoại của ông cha, đối ngoại Việt Nam với phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, chúng ta cần tiếp tục hội nhập sâu vào khu vực và thế giới để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

PGS.TS. Vũ Quang Vinh

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

(Theo Tạp chí Nhịp cầu Tri thức)


*****

1, 3, 4, 5, 6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 11, 232, 225, 151-152, 313.

2. Bộ Ngoại giao - 70 năm xây dựng và phát triển (1945-2015), Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2015, tr. 345.

7. Tạp chí Thông tin Đối ngoại, số 3-2016, tr. 20-21.

Bình luận