Động lực phát triển bền vững từ tinh thần Hội nghị Trung ương 4 khóa XII

Ngày đăng: 07/12/2016 - 15:12

TBT phat bieu khai mac hoi nghi 4612Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đánh dấu sự đổi mới nhận thức lý luận và cụ thể hóa những đặc trưng về mô hình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong bối cảnh mới. Ngày 14-10-2016, phát biểu kết luận Hội nghị Trung ương 4 khóa XII, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, cần xác định đổi mới mô hình tăng trưởng là nhiệm vụ cơ bản, trọng yếu của chúng ta trong giai đoạn hiện nay. Đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển nền kinh tế theo hướng bền vững, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ngày càng vững chắc và hiệu quả hơn.

Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về các văn kiện Đại hội XII của Đảng do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trình bày tại buổi khai mạc Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng sáng 21-1-2016 đã khẳng định: “Tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức; hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”1. Báo cáo chính trị Đại hội XII đã nhận diện và khắc họa rõ nét, toàn diện hơn những đặc trưng cơ bản của mô hình mới, theo đó: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”2.

Cần nhấn mạnh rằng, nếu như tính kinh tế thị trường của nền kinh tế Việt Nam được khẳng định là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật và tuân thủ đúng quy trình của kinh tế thị trường, thì tính định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước được thể hiện ở mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” và được bảo đảm bởi sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

Sự kết hợp hiệu quả giữa tính kinh tế thị trường và tính định hướng xã hội chủ nghĩa cũng chính là đáp ứng xu hướng mới mang tầm vóc thời đại, đòi hỏi có sự kết hợp tất yếu của bàn tay thị trường với bàn tay nhà nước trong một mô hình quản lý xã hội mới đang dần định hình trên thế giới, nhất là từ sau những cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội liên tiếp xảy ra trong những thập niên cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI trên quy mô toàn thế giới và trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng hơn. Sự kết hợp này vừa là mục tiêu, vừa là động lực gắn kết chặt chẽ phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường; tạo môi trường thuận lợi cho phát huy dân chủ, sáng tạo và bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo đảm kinh tế Việt Nam phát triển nhanh, bền vững trên cơ sở ổn định kinh tế vĩ mô, không ngừng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, phát triển kinh tế đi đôi với nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân, bảo đảm để nhân dân được hưởng thụ ngày một tốt hơn thành quả của công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước…

Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII nhấn mạnh: Mô hình tăng trưởng mà nước ta đổi mới, xây dựng là mô hình tăng trưởng ngày càng dựa nhiều hơn vào năng suất lao động, chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế; huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực theo tín hiệu và cơ chế thị trường; phát huy tinh thần yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, tài năng, trí sáng tạo của con người và mọi tiềm năng, lợi thế của các ngành, lĩnh vực, các địa phương và cả nước; tạo cơ hội cho mọi người dân tham gia và cùng hưởng lợi từ tăng trưởng; chú trọng nâng cao chất lượng tăng trưởng, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ gìn môi trường sinh thái. Đương nhiên, phải tùy tình hình thực tế của từng ngành, lĩnh vực và địa phương mà kết hợp hợp lý giữa tăng trưởng theo chiều rộng và chiều sâu, trong đó, lấy tăng trưởng theo chiều sâu là hướng chủ đạo. Chuyển dần từ tăng trưởng chủ yếu dựa vào đầu tư và xuất khẩu sang tăng trưởng dựa đồng thời vào cả đầu tư, xuất khẩu và thị trường trong nước. Chuyển dần từ dựa vào gia tăng số lượng các yếu tố đầu vào của sản xuất sang dựa vào tăng năng suất, chất lượng lao động, ứng dụng khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo. Khai thác và phát huy tối đa nội lực kết hợp với thu hút và sử dụng hiệu quả ngoại lực.

Thực tiễn cho thấy, nền kinh tế hội nhập và phát triển thành công chỉ có thể dựa trên nền tảng thể chế quốc gia thân thiện, thuận lợi và an toàn cho kinh doanh; mở rộng dân chủ, bảo đảm quyền tự do của người dân; với đội ngũ doanh nghiệp, doanh nhân đông đảo, năng động và có trình độ quản lý, kinh doanh giỏi, có đạo đức nghề nghiệp và trách nhiệm xã hội cao, có tinh thần dân tộc và ý thức đoàn kết cộng đồng. Đồng thời, tái cơ cấu gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh trên cơ sở khai thác các thành quả cách mạng khoa học công nghệ, hiện đại hóa cơ cấu và thể chế quản lý gắn với phát triển kinh tế tri thức là cách thức phát triển chung của mọi quốc gia. Đây là một quá trình mở, được thúc đẩy mạnh mẽ hơn trong bối cảnh các cơ hội và nguồn lực phát triển theo chiều rộng đã tới giới hạn, trong khi các yêu cầu và điều kiện phát triển theo chiều sâu đang ngày càng gia tăng áp lực. Việc kéo dài cách thức đầu tư cũ, chậm đổi mới cơ chế quản lý phù hợp với bối cảnh thị trường hiện đại sẽ không chỉ làm triệt tiêu động lực tăng trưởng trước đó, mà còn tích tụ thêm những xung lực tiêu cực từ việc giảm sút năng lực cạnh tranh và chất lượng môi trường sống, tăng nợ xấu và nợ công, bất bình đẳng xã hội và nguy cơ bùng phát những bất ổn cả về kinh tế và xã hội. Hơn nữa, trong thời gian tới, quá trình tái cơ cấu, gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng ở Việt Nam không thể là việc làm duy ý chí, phong trào, hình thức, bất chấp các hệ lụy, mà cần tiến hành theo hướng: Kết hợp có hiệu quả phát triển chiều rộng với chiều sâu, chú trọng phát triển chiều sâu, nâng cao chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh trên cơ sở ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ; nâng cao năng suất lao động, chất lượng nguồn nhân lực; phát huy lợi thế so sánh và chủ động hội nhập quốc tế; giải quyết hài hòa giữa mục tiêu trước mắt và lâu dài, giữa phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng, an ninh, phát triển văn hóa, tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Triển khai tái cơ cấu đồng bộ, tổng thể nền kinh tế, các ngành, các lĩnh vực, sản phẩm, thị trường và các yếu tố sản xuất; tập trung tái cơ cấu đầu tư công, hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính; các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước và ngân sách nhà nước; kiểm soát nợ xấu, nợ công sở hữu chéo. Phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, ứng dụng công nghệ và tạo giá trị gia tăng cao, bảo đảm chất lượng an toàn vệ sinh thực phẩm; cơ cấu lại, hướng tới một nền nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sinh thái bền vững, hiệu quả; phát triển chuỗi nông sản thực phẩm sạch, an toàn và nông sản thực phẩm hữu cơ phục vụ đời sống nhân dân và xuất khẩu. Chuyển mạnh từ sản xuất theo hộ gia đình riêng lẻ sang sản xuất theo hộ gia đình liên kết trong hợp tác xã kiểu mới và các mô hình kinh tế hợp tác khác. Tăng cường liên kết “bốn nhà”: Nhà nông - Nhà nước - Nhà đầu tư - Nhà khoa học. Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ phù hợp với điều kiện biến đổi khí hậu, nước biển dâng để lựa chọn phát triển các sản phẩm phát huy lợi thế so sánh của từng địa phương, từng vùng và cả nước. Phát triển công nghiệp chế tạo, chế biến, công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp sạch, công nghiệp năng lượng, cơ khí, điện tử, hóa chất, công nghiệp xây dựng, xây lắp, công nghiệp quốc phòng, an ninh; phát triển khu vực dịch vụ theo hướng hiện đại, đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn các khu vực sản xuất và cao hơn tốc độ tăng trưởng của cả nền kinh tế, ưu tiên một số ngành dịch vụ có lợi thế, có hàm lượng tri thức và công nghệ cao. Phát triển mạnh kinh tế biển và các vùng kinh tế động lực, một số đặc khu kinh tế và ưu tiên tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế vùng cao, vùng sâu, vùng xa và địa bàn khó khăn, dân tộc thiểu số…

Trong quá trình đổi mới toàn diện và chủ động hội nhập quốc tế, Việt Nam đã, đang và sẽ nỗ lực đưa chính sách đối ngoại và hội nhập quốc tế theo chiều sâu, tạo được sự đan xen, gắn kết lợi ích một cách lâu dài và bền vững giữa nước ta với các đối tác, đưa khuôn khổ quan hệ đã xác lập đi vào thực chất; tạo dựng được lòng tin và hình thành nên các cơ chế hợp tác có hiệu quả trong việc thúc đẩy quan hệ, ngăn ngừa, đẩy lùi các nguy cơ, kiểm soát các bất đồng và giải quyết các vấn đề nảy sinh, nhất là các vấn đề có thể tác động nghiêm trọng tới an ninh và phát triển của đất nước ta; thực hiện đầy đủ các cam kết trong Cộng đồng ASEAN và WTO, tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới; tận dụng các cam kết quốc tế để mở rộng thị trường, tái phân bổ và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực, sức cạnh tranh của nền kinh tế cũng như của doanh nghiệp Việt Nam; gia tăng mức độ tự chủ của nền kinh tế, xác lập vị trí cao hơn trong chuỗi sản xuất, cung ứng ở khu vực và toàn cầu; tăng cường khả năng ứng phó của nền kinh tế trước những tác động từ bên ngoài; đóng góp ngày càng nhiều cho quá trình phát triển nội lực và liên kết vùng trong cả nước; tận dụng được chính hệ thống quy tắc và luật lệ của các tổ chức quốc tế để bảo vệ được các lợi ích chính đáng của Nhà nước, doanh nghiệp và người dân Việt Nam trong quan hệ với đối tác nước ngoài; chủ động hơn trong việc nghiên cứu, chọn lựa các bộ tiêu chí, xây dựng và triển khai lộ trình áp dụng, đồng thời tham gia xây dựng các tiêu chí, chuẩn mực chung, góp phần nâng cao trình độ phát triển của nước ta trong các lĩnh vực này; phục vụ các mục tiêu xây dựng nền kinh tế tri thức và con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; tạo dựng các mối quan hệ ổn định, lâu dài hơn với các đối tác, gia tăng tính ổn định, bền vững của môi trường chính trị, an ninh, tiếp tục nâng cao vị thế và uy tín của đất nước trên trường quốc tế. Theo đó, Việt Nam tiếp tục triển khai đồng bộ và nâng cao hiệu quả sự phối hợp giữa đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại nhân dân, giữa các ngành, các cấp, các địa phương; trên cơ sở bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ đối tác, nhất là các khuôn khổ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định cho đất nước, thúc đẩy quan hệ chính trị, kinh tế, thương mại, đầu tư, khoa học, công nghệ tạo thuận lợi cho phát triển đất nước và quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam; tăng cường công tác phổ biến các cam kết quốc tế ta đã ký kết, đã nội luật hóa và các quy định trong quá trình triển khai; làm cho mỗi tổ chức, mỗi người dân hiểu rõ thách thức, cơ hội mà họ có được từ hội nhập quốc tế để tham gia một cách chủ động và tích cực; biến quá trình hội nhập từ các hoạt động chủ yếu do các cơ quan nhà nước tiến hành thành quá trình tham gia chủ động và tích cực của từng địa phương, tổ chức, doanh nghiệp, người dân; tập trung thực hiện Chiến lược tổng thể hội nhập quốc tế đến năm 2020, tầm nhìn 2030 và các đề án, kế hoạch triển khai Nghị quyết số 22 - NQ/ TW của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế; khẩn trương hoàn thiện, nâng cao năng lực các thể chế hội nhập; đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực phục vụ hội nhập; phấn đấu đến năm 2020, mức độ hội nhập trên các lĩnh vực của nước ta ở mức độ cao của các nước ASEAN. Đặc biệt, cần kiên định mục tiêu hội nhập quốc tế vì lợi ích quốc gia - dân tộc, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trên cơ sở luật pháp quốc tế, bình đẳng, cùng có lợi. Coi chủ động và tích cực hội nhập quốc tế là định hướng chiến lược lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân, doanh nhân, doanh nghiệp và đội ngũ trí thức là lực lượng đi đầu; cần tập trung khuyến khích, tạo điều kiện cho sự phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nhân, doanh nghiệp và sản phẩm Việt Nam. Đẩy mạnh việc đổi mới, hoàn thiện hệ thống pháp luật; chủ động xử lý các vấn đề nảy sinh; giám sát chặt chẽ và quản lý hiệu quả quá trình thực hiện các cam kết, nhất là trong những lĩnh vực liên quan đến ổn định chính trị - xã hội. Không ngừng chăm lo xây dựng, nâng cao năng lực cạnh tranh, khả năng tự vệ của quốc gia, các ngành, lĩnh vực và các tổ chức, cá nhân Việt Nam trực tiếp tham gia hội nhập quốc tế. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tiến trình hội nhập quốc tế. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức chính trị - xã hội, đặc biệt là công đoàn, phù hợp với yêu cầu của tình hình mới.

Trong 5-10 năm tới, cần tập trung ưu tiên xây dựng và triển khai thực hiện các chính sách, biện pháp thực hiện các thỏa thuận đã ký kết, đáp ứng yêu cầu bảo đảm nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế gắn với giữ vững ổn định chính trị - xã hội. Trước hết, phải tăng cường công tác chính trị, tư tưởng, nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và mọi tầng lớp nhân dân, nhận thức đầy đủ, đúng đắn về cơ hội và thách thức từ việc thực thi các hiệp định kinh tế, thương mại mới; không ảo tưởng, mất cảnh giác và cũng không lo lắng thái quá, dẫn đến thiếu sự chủ động, tự tin cần thiết.

Những nhận thức mới, đầy đủ và sâu sắc hơn về mô hình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang định vị và cho phép khai thác các động lực và đảm bảo triển vọng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trên cơ sở sự phối hợp hài hòa bàn tay nhà nước và bàn tay thị trường trong một mô hình nhà nước kiểu mới; coi trọng tính đồng bộ và chú ý đến tính hai mặt của các giải pháp chính sách, nhằm đa dạng hóa và phối hợp hiệu quả các nguồn lực trong nước và quốc tế, tiếp tục mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả vốn đầu tư, sự cải thiện môi trường kinh doanh, giảm nhẹ gánh nặng chi phí tài chính và thể chế; đẩy mạnh tái cơ cấu, xã hội hóa và tự do hóa đầu tư, tham gia chuỗi liên kết và cung ứng giá trị sâu và vững chắc hơn, cũng như tuân thủ các chuẩn mực và thông lệ thế giới, chủ động quản trị rủi ro; phát triển kinh tế biển, công nghiệp phụ trợ và cơ cấu liên kết kinh tế vùng; kiểm soát tốt an toàn tài chính vĩ mô, nợ công, nợ xấu, sở hữu chéo và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; trọng dụng người hiền tài và đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, phát huy dân chủ trong Đảng và trong xã hội; tăng cường dự báo, thông tin, bảo vệ người tiêu dùng và giữ vững lòng tin thị trường, uy tín quốc gia và quốc tế…

Đặc biệt, những nỗ lực tạo các đột phá thể chế Việt Nam bền vững và có tính hội nhập cao hơn được thể hiện tập trung trong chủ trương xây dựng một chính phủ kiến tạo, liêm chính và đồng hành cùng doanh nghiệp. Theo đó, Nhà nước, thay vì bao biện, làm thay hay tìm cách tăng thêm quyền quản lý hoặc đầu tư cho mình, luôn biết xây dựng và củng cố truyền thống tôn trọng, tôn vinh và đặt niềm tin, trao quyền cho người dân và doanh nghiệp, nhất quán với chủ trương xây dựng kinh tế là trung tâm và doanh nghiệp là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Cần tăng cường đối thoại, lắng nghe nguyện vọng của các doanh nghiệp, nhận rõ bức xúc của doanh nghiệp và thực lòng tạo môi trường kinh doanh tốt hơn, cải cách thủ tục hành chính hiệu quả hơn, khuyến khích doanh nghiệp áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến, xây dựng thương hiệu lớn; kiên quyết làm trong sạch bộ máy, khắc phục tình trạng lạm thu phí chồng phí, thanh tra, kiểm tra chồng chéo, hình sự hóa các quan hệ kinh tế, lối hành xử nhũng nhiễu theo kiểu lợi ích nhóm và tư duy nhiệm kỳ, tranh công, đổ lỗi và né tránh trách nhiệm, tạo gánh nặng chi phí cả chính thức và không chính thức cho doanh nghiệp; bảo đảm tiến độ, chất lượng các luật định và văn bản pháp lý ban hành, loại bỏ những quy định, điều kiện và giấy phép kinh doanh không còn phù hợp, khắc phục tính không rõ ràng, thiếu tương thích, thiếu định lượng, dẫn đến có nhiều cách hiểu khác nhau về một vấn đề, cản trở quyền tự do kinh doanh và làm tăng rủi ro, chi phí cho doanh nghiệp…

Tận tâm với doanh nghiệp, doanh nhân, không ngừng hoàn thiện thể chế, chính sách, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh tiến bộ, ổn định, lấy người dân và doanh nghiệp làm đối tượng phục vụ là nhiệm vụ cấp thiết của Nhà nước kiến tạo và cũng là kỳ vọng hàng đầu của cả cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân trên hành trình giải phóng sức sáng tạo và huy động hiệu quả những nguồn lực xã hội to lớn để thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp quốc gia và tạo động lực cho doanh nghiệp phát triển không ngừng, góp phần phát triển đất nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

TS. Nguyễn Minh Phong

ThS. Nguyễn Trần Minh Trí

1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr. 22, 25.


Bình luận