Con đường xã hội chủ nghĩa - sự lựa chọn đúng đắn, phù hợp với quy luật tiến hóa của lịch sử

Ngày đăng: 13/01/2017 - 15:01

Nghiên cứu, tổng kết sự phát triển của lịch sử loài người, C. Mác đã chứng minh về sự thay thế tất yếu của các chế độ từ chế độ cộng sản nguyên thủy đến chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản và chế độ xã hội chủ nghĩa. Đó là lý luận về hình thái kinh tế - xã hội mà cho đến nay, giá trị khoa học và hiện thực của nó ngày càng được khẳng định và làm sáng tỏ. Với những phát minh vĩ đại, Mác được thế giới suy tôn là một trong số những nhà khoa học hàng đầu không chỉ của thế kỷ XIX mà của cả thiên niên kỷ.

Khi phát kiến học thuyết chủ nghĩa xã hội khoa học, C. Mác và Ph. Ăngghen đã phát triển những ý tưởng tốt đẹp về chủ nghĩa xã hội trước đó. Điều quan trọng không phải dừng lại ý tưởng hay mong muốn thành tâm trong sự nghiệp giải phóng giai cấp lao khổ, giải phóng con người mà phải là tính hiện thực. Ăngghen từng nhấn mạnh, từ khi chủ nghĩa xã hội trở thành một khoa học, đòi hỏi phải đối xử với nó như một khoa học, nghĩa là phải được nghiên cứu. Ăngghen cho rằng: "Muốn làm cho chủ nghĩa xã hội thành một khoa học thì trước hết phải đặt chủ nghĩa xã hội trên một cơ sở hiện thực"1. Giá trị khoa học chính là ở cơ sở hiện thực, ở khả năng hiện thực hóa học thuyết ấy. Mác cũng nhấn mạnh giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Đó là lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cần được kiểm chứng từ thực tiễn. Nhận thức của Mác và Ăngghen về chủ nghĩa xã hội và quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã được xác định trên những vấn đề cơ bản về kinh tế, chính trị, xã hội. Các ông không coi học thuyết mà các ông nêu ra là giáo điều, là công thức có sẵn hay cái gì đó đã hoàn tất, mà cần được bổ sung, phát triển từ hiện thực lịch sử.

Phát triển tư tưởng của Mác và Ăngghen, Lênin và Đảng Bônsêvích Nga đã bắt đầu hiện thực hóa lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học từ thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Mười năm 1917. Trước đó, Lênin đã nêu rõ: "Người ta không thể coi cách mạng xã hội chủ nghĩa là một công cuộc làm một lần thì xong, mà phải coi đó là một thời đại"1. Sau Cách mạng Tháng Mười, trong nhiều tác phẩm quan trọng và từ thực tiễn của cách mạng xã hội chủ nghĩa, Lênin đã nêu rõ những nội dung, hay những đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chính sách kinh tế mới (NEP) do Lênin khởi xướng đã làm sáng tỏ hơn những quy luật xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội được đẩy mạnh ở Liên Xô mặc dù chính sách kinh tế mới không được tiếp tục thực hiện triệt để. Trước Cách mạng Tháng Mười, nước Nga có trình độ phát triển tư bản trung bình. Ngày 30-12-1922 thành lập Liên bang Xôviết (Liên Xô), các nước thành viên còn ở trình độ rất lạc hậu cả về kinh tế và xã hội. Phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, Liên Xô đã có bước phát triển mạnh mẽ về kinh tế, nhất là công nghiệp hóa, tăng cường sức mạnh của lực lượng xã hội và chế độ chính trị. Nếu không có sức mạnh đó, thì Liên Xô không thể chiến thắng trong cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại và đánh bại chủ nghĩa phát xít hùng mạnh và tàn bạo, góp phần cùng các lực lượng Đồng minh tiêu diệt chủ nghĩa phát xít, quân phiệt, cứu loài người khỏi thảm họa. Đó là hiện thực lịch sử không ai có thể phủ nhận. Chính con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô đã có ý nghĩa khai phá và cổ vũ các dân tộc tiến lên theo mục tiêu cao cả của chủ nghĩa xã hội là xây dựng một xã hội không còn áp bức, bất công, một xã hội thật sự vì nhân dân, vì con người.

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Liên Xô tiếp tục đẩy mạnh xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhiều nước ở Đông Âu và châu Á từng bước hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ và chuyển lên cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thế giới hình thành hai hệ thống đối lập trong chiến tranh lạnh: hệ thống tư bản chủ nghĩa và hệ thống xã hội chủ nghĩa. Liên Xô trở thành một siêu cường quốc trong cục diện tồn tại hai siêu cường là Mỹ và Liên Xô. Cuộc đấu tranh giữa hai hệ thống, hai siêu cường không chỉ là đấu tranh đơn thuần về ý thức hệ, mà là giữa chế độ xã hội chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa tư bản, đế quốc. Chủ nghĩa xã hội hiện thực đã tự khẳng định sức mạnh và những ưu việt không thể phủ nhận.

Một chế độ xã hội mới ra đời là một quá trình lịch sử. Đó là quá trình tự hoàn thiện và loại bỏ những gì không đúng, không thích hợp. Các nước tư bản đạt tới trình độ phát triển cao cũng phải trải qua mấy thế kỷ để thực hiện nội dung cách mạng tư sản, loại bỏ những tàn tích phong kiến. Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và các nước khác trải qua mấy chục năm xây dựng chủ nghĩa xã hội có được những thành tựu to lớn, nhưng cũng bộc lộ những khuyết điểm, yếu kém cần phải sửa chữa thông qua cải cách, cải tổ, đổi mới. Những yếu kém, khuyết điểm dễ thấy ở các nước xã hội chủ nghĩa là lực lượng sản xuất, khoa học công nghệ còn kém phát triển so với các nước tư bản, do đó năng suất lao động, hiệu quả kinh tế thấp. Quan hệ sản xuất có những yếu tố cản trở sự phát triển lực lượng sản xuất, hạn chế những động lực phát triển kinh tế. Những vấn đề xã hội, chính sách xã hội để nâng cao đời sống nhân dân còn hạn chế. Chế độ chính trị có những khuyết tật về chủ nghĩa quan liêu, đặc quyền, đặc lợi, tham nhũng, vi phạm dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân. Những khuyết tật, khuyết điểm đó trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nghĩa là chưa có chủ nghĩa xã hội đầy đủ, là điều khó tránh. Khuyết tật, khuyết điểm đó cũng do nhận thức chưa rõ, chưa đúng với quy luật, đặc trưng của thời kỳ quá độ theo quan điểm của Mác, Lênin và hoàn toàn có thể sửa chữa được. Sự đổ vỡ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu không phải do những khuyết tật, khuyết điểm đó mà do cách thức và động cơ sửa chữa. Chủ nghĩa cơ hội, những phần tử chống chủ nghĩa xã hội đã cố tình làm cho những khuyết điểm thêm trầm trọng và lấy đó làm cái cớ để xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa.

Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ là tổn thất lớn đối với phong trào cách mạng thế giới. Không một người cách mạng chân chính nào lại không thấy đau buồn về tổn thất đó. Sự thật đó đặt ra yêu cầu khách quan phải nhận thức lại để tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội phù hợp với quy luật và thực tiễn. Cần phải nhấn mạnh một thực tiễn sinh động là, từ đầu thập niên 90 của thế kỷ XX đến nay, một số nước theo con đường xã hội chủ nghĩa vẫn kiên định mục tiêu, lý tưởng, tiến hành cải cách, đổi mới, giành được những thành tựu to lớn và tiếp tục phát triển. Xu hướng xã hội xã hội chủ nghĩa phát triển mới ở một số nước lực lượng cánh tả cầm quyền. Thế giới hiện nay đang tồn tại các nước có chế độ chính trị khác nhau, trong đó có các nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Dù còn phải trải qua khó khăn, thách thức, song theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội.

Ở Việt Nam, nhận thức về chủ nghĩa xã hội bắt đầu từ những năm 20 của thế kỷ XX, khi Nguyễn Ái Quốc tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin và xác định con đường đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam. Độc lập dân tộc là điều Nguyễn Ái Quốc khẳng định trên hết, trước hết. Giành độc lập rồi hoàn toàn có thể phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội là chế độ xã hội tốt đẹp, là sự bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Năm 1921, Nguyễn Ái Quốc cho rằng, do điều kiện về văn hóa, xã hội và lịch sử "cho phép chủ nghĩa cộng sản thâm nhập vào châu Á dễ dàng hơn là ở châu Âu"[1]. Cần phải nhận thức chủ nghĩa cộng sản cho đúng đắn. Không nên nhận thức chủ nghĩa cộng sản là sự phá bỏ tất cả hoặc chỉ là giải phóng khỏi ách thống trị của nước ngoài. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam (1930) xác định rõ con đường đấu tranh, làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập để đi tới xã hội cộng sản. Luận cương chính trị tháng 10-1930 xác định cách mạng Việt Nam "bỏ qua thời kỳ tư bổn mà tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa"[2].

Đó là sự lựa chọn đúng đắn con đường phát triển của cách mạng và dân tộc Việt Nam. Sự lựa chọn đó đã dứt khoát từ năm 1930, khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời trong lúc các phong trào yêu nước từ lập trường Cần Vương đến lập trường tư sản, tiểu tư sản, qua khảo nghiệm của lịch sử đều lần lượt thất bại. Con đường cách mạng do người cộng sản cũng là người yêu nước Nguyễn Ái Quốc khởi xướng được những nhà yêu nước nổi tiếng khi đó ủng hộ và đặt niềm tin. Phan Châu Trinh trong thư gửi Nguyễn Ái Quốc ở Pari ngày 18-2-1922 đã khuyên Nguyễn Ái Quốc trở về nước "hô hào quốc dân đồng bào đồng tâm hiệp lực đánh đổ cường quyền áp chế". Phan Châu Trinh thấy Nguyễn Ái Quốc như "cây đương lộc", "nghị lực có thừa, dày công học hỏi, lý thuyết tinh thông"1. Còn Phan Bội Châu trong thư gửi Nguyễn Ái Quốc ở Quảng Châu (Trung Quốc) ngày 14-2-1925 đã hoàn toàn đặt niềm tin vào Nguyễn Ái Quốc. "Bây giờ đem kẻ già này so với cháu, Bác thấy rất xấu hổ. Nhận được liên tiếp hai lá thư của cháu, bác cảm thấy vừa buồn vừa mừng. Buồn là buồn cho thân bác, mà mừng là mừng cho đất nước ta. Việc thừa kế nay đã có người... Việc gây dựng lại giang sơn, ngoài cháu có ai để nhờ ủy thác, gánh vác trách nhiệm thay mình"2.

Từ năm 1930 đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh sáng lập đã lãnh đạo toàn dân tộc Việt Nam thực hiện mục tiêu, con đường đã lựa chọn và đã đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 chấm dứt chế độ phong kiến, thuộc địa, mở ra thời đại độc lập vẻ vang của dân tộc. Thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt chống thực dân, đế quốc, giải phóng và bảo vệ Tổ quốc, giành độc lập, thống nhất hoàn toàn. Thắng lợi của công cuộc đổi mới đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đó là những thắng lợi vĩ đại của toàn dân tộc Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo, được toàn dân và cả thế giới khẳng định và không một thế lực thù địch nào có thể xuyên tạc hoặc phủ nhận.

Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã có được những thành quả quan trọng. Đó là sức mạnh của chế độ chính trị vì nhân dân, vì lợi ích của quốc gia, dân tộc với chế độ dân chủ nhân dân và từng bước phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa gắn liền với pháp chế xã hội chủ nghĩa. Từng bước xác lập nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với sự phát triển lực lượng sản xuất, cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội thông qua quá trình công nghiệp hóa và nhận thức ý nghĩa then chốt của cách mạng khoa học - kỹ thuật và xóa bỏ chế độ người bóc lột người. Thực hiện các chính sách xã hội để từng bước bảo đảm đời sống nhân dân và sự công bằng xã hội. Xây dựng văn hóa và con người với sự kết hợp chủ nghĩa yêu nước và lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Chính sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa đã bảo đảm cho miền Bắc đứng vững và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Cũng chính sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa đã bảo đảm cho cả nước sau năm 1975 vượt qua những khó khăn, thử thách nặng nề, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong các cuộc chiến tranh ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, tiếp tục có những bước phát triển mới.

Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, Đại hội VI Đảng Cộng sản Việt Nam (12-1986) trong khi khẳng định những thành quả cũng đã thẳng thắn chỉ ra những khuyết điểm, yếu kém dẫn tới khó khăn, trì trệ kéo dài trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và khủng hoảng kinh tế - xã hội. Nguyên nhân của tình trạng đó là bệnh chủ quan, duy ý chí, nóng vội trong cải tạo xã hội chủ nghĩa và đề ra các chủ trương, chính sách; chưa tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan, nhất là các quy luật và đặc trưng của thời kỳ quá độ phù hợp với đặc điểm thực tiễn Việt Nam. Thẳng thắn nhìn nhận sự không thành công trong thực hiện quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. "Kinh nghiệm thực tế chỉ rõ: lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Tình hình thực tế của nước ta đòi hỏi phải coi trọng những hình thức kinh tế trung gian, quá độ từ thấp lên cao, từ quy mô nhỏ lên quy mô lớn"[3].

Đường lối đổi mới toàn diện do Đại hội VI Đảng Cộng sản Việt Nam (12-1986) khởi xướng là kết tinh của tư duy lý luận mới, nhận thức đúng đắn về chủ nghĩa xã hội và quá độ lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với thực tiễn Việt Nam, khắc phục tư duy chủ quan, giản đơn, nóng vội, giáo điều. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh sự cần thiết phải nắm bắt sâu sắc đặc điểm riêng của Việt Nam để tìm ra hình thức, bước đi và quy luật riêng của Việt Nam, không thể làm giống như nước khác. Hồ Chí Minh nêu rõ:

"Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc biến đổi khó khăn nhất và sâu sắc nhất. Chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta. Chúng ta phải thay đổi triệt để những nếp sống, thói quen, ý nghĩ và thành kiến có gốc rễ sâu xa hàng ngàn năm. Chúng ta phải thay đổi quan hệ sản xuất cũ, xóa bỏ giai cấp bóc lột, xây dựng quan hệ sản xuất mới không có bóc lột áp bức"[4].

"Trong những điều kiện như thế, chúng ta phải dùng những phương pháp gì, hình thức gì, đi theo tốc độ nào để tiến dần lên chủ nghĩa xã hội?... Chúng ta phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩa Mác - Lênin để dùng lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác - Lênin mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta. Có như thế, chúng ta mới có thể dần dần hiểu được quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, định ra được những đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa thích hợp với tình hình nước ta"[5].

Từ đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa của Đại hội III (9-1960), Đại hội IV (12-1976) đến đường lối đổi mới của Đại hội VI (12-1986) là bước phát triển rất quan trọng về tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội và về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó cũng là kết quả của sự tổng kết và khảo nghiệm thực tiễn rất phong phú và sinh động. Trên cơ sở đổi mới tư duy lý luận và trả lời những vấn đề do thực tiễn đặt ra mà Đại hội VII của Đảng (6-1991) thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và Cương lĩnh đã được bổ sung, phát triển tại Đại hội XI của Đảng (1-2011).

Quá trình đổi mới theo con đường xã hội chủ nghĩa đã tạo ra những chuyển biến căn bản và sâu sắc diện mạo của đất nước, xã hội và đời sống của nhân dân. Một là, đã chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, khép kín, kinh tế hiện vật, công hữu, bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, đa sở hữu, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hai là, về chính trị, từ thực hiện những chức năng, nhiệm vụ của chuyên chính vô sản sang xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền, không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền công dân, quyền con người; đổi mới và nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng Cộng sản. Ba là, thực hiện tốt hơn những vấn đề xã hội và chính sách xã hội, củng cố đoàn kết và đồng thuận xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và văn hóa, tinh thần của nhân dân, từng bước thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Bốn là, tích cực và chủ động hội nhập quốc tế, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ, Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế; tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo của Tổ quốc, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc.

Nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn luôn luôn được Đảng Cộng sản Việt Nam coi trọng để có được những luận cứ khoa học vững chắc cho việc hoạch định Cương lĩnh, đường lối, chiến lược phát triển và chính sách. Từ những chuyển biến của thực tiễn đất nước dựa trên nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã ngày càng sáng tỏ hơn. Sáng tỏ về mục tiêu và mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam phấn đấu xây dựng với 8 đặc trưng, trong đó nội dung hàng đầu là xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Sáng tỏ hơn những vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, con người của thời kỳ quá độ, nhất là những hình thức tổ chức kinh tế, xã hội quá độ, chặng đường, bước đi của thời kỳ quá độ. Sáng tỏ hơn khả năng bỏ qua chủ nghĩa tư bản, bỏ qua quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng có thể kế thừa những thành tựu loài người đạt được dưới chế độ tư bản, nhất là thành tựu về khoa học-công nghệ. Sáng tỏ hơn trong những định hướng lớn trong xây dựng, phát triển đất nước và xử lý đúng đắn các mối quan hệ lớn đã được Đại hội XI của Đảng xác định, bảo đảm cho đất nước phát triển nhanh và bền vững.

Chủ nghĩa xã hội trên thế giới mới trải qua lịch sử xây dựng gần một trăm năm, có thành công, khuyết điểm và cả sự đổ vỡ. Sự ra đời đầy khó khăn của một xã hội hoàn toàn mới là điều dễ hiểu. Con đường phát triển chẳng bao giờ thẳng tắp, dễ dàng. Cách mạng tư sản trước đây, có nước đã phải làm lại nhiều lần và trải qua mấy thế kỷ mới trở thành nước tư bản phát triển. Sự đổ vỡ, thất bại của mô hình chủ nghĩa xã hội từ những sai lầm chủ quan của Đảng cầm quyền vẫn cần được tiếp tục nghiên cứu và có được những lý giải khoa học. Từ bài học Liên Xô, Đông Âu, các nước đang kiên định con đường xã hội chủ nghĩa vẫn tiếp tục phát triển với nhận thức phù hợp với đặc điểm mỗi nước và đạt được những thành tựu quan trọng. Trên thực tế, quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế đang diễn ra với sự tham gia của tất cả các nước có chế độ chính trị khác nhau, trong đó có các nước đang xây dựng chủ nghĩa xã hội và hướng tới mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.

Việt Nam đang đổi mới thành công và từng bước hiện thực hóa mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Việt Nam công khai con đường xã hội chủ nghĩa với vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản và quản lý điều hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đã và đang đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Việt Nam phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa và được đông đảo các nước hợp tác để cùng phát triển trong xu thế hội nhập quốc tế. Việt Nam đang có quan hệ ngoại giao với 185 nước trong tổng số 193 nước thành viên Liên hợp quốc, có quan hệ đối tác chiến lược với 13 nước gồm những cường quốc và các nước phát triển hàng đầu, tham gia nhiều diễn đàn thế giới, khu vực và nhiều tổ chức của Liên hợp quốc. Vị thế quốc tế của Việt Nam tự nó khẳng định tính đúng đắn của con đường xây dựng, phát triển đất nước.

Con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam vẫn còn những khuyết điểm, yếu kém cả về kinh tế, xã hội, văn hóa, đạo đức, hay sự lãnh đạo, quản lý. Đó là khuyết điểm trong quá trình phát triển và không thể vì những khuyết điểm, yếu kém đó để phủ nhận những thành tựu cơ bản và lớn lao đang làm biến đổi sâu sắc đất nước. Con đường xã hội chủ nghĩa để hướng tới một xã hội tốt đẹp, thật sự vì con người, vì lợi ích quốc gia, dân tộc thì tại sao lại phải từ bỏ nó. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo toàn dân xây dựng chủ nghĩa xã hội là vì mục tiêu đất nước giàu mạnh, người dân được tự do, ấm no, sung sướng, hạnh phúc, vì một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Để đạt tới mục tiêu đó cần sự nỗ lực đóng góp công sức, trí tuệ của mỗi người, của toàn dân với sức sáng tạo to lớn.

Những người phê phán con đường xã hội chủ nghĩa đã cố tình phủ nhận lịch sử, quay lưng lại với thực tiễn, thành quả phát triển của đất nước, để thực hiện mưu đồ chính trị xóa bỏ thành quả cách mạng, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đưa đất nước đi chệch hướng để thực hiện tham vọng chính trị của họ. Điều dễ thấy là họ lợi dụng những khuyết điểm, yếu kém rồi thổi phồng lên để phê phán, phủ nhận. Những thành tựu và những điều tốt đẹp thì họ lại tìm cách bóp méo, xuyên tạc và phủ nhận. Vì vậy, cần phải tỉnh táo và có đủ trí tuệ, bản lĩnh để nhận diện và bác bỏ quan điểm sai trái đó. Ta quyết tâm sửa chữa những khuyết điểm, yếu kém và vững tin vào con đường đúng đắn. Lịch sử đất nước, dân tộc đang phát triển trên con đường đúng đắn đó và không thế lực nào có thể cản trở, phá hoại, vì đó là con đường phù hợp với quy luật tiến hóa của lịch sử.

PGS. TS. NGUYỄN TRỌNG PHÚC

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Trích trong cuốn Phê phán các quan điểm sai trái, bảo vệ nền tảng tư tưởng, cương lĩnh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam

do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản

Chú thích:

1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.19, tr.293.

1. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.26, tr.444.

[1]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.47.

[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.2, tr.94.

1. Đại cương lịch sử Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1999, t.II, tr.252.

2. Hồ Chí Minh Tiểu sử, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2006, tr.161.

[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam:Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.47, tr.390.

[4]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.91-92.

[5]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.92.


Bình luận