Xử lý tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế của Việt Nam trong bối cảnh mới
Bảo đảm độc lập, tự chủ là nguyên tắc nhất quán trong hệ thống quan điểm hội nhập quốc tế của Đảng ta và là đường lối xuyên suốt trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta kể từ khi tiến hành công cuộc đổi mới. Đổi mới tư duy về quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế góp phần đổi mới tư duy trong xây dựng và thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, các chiến lược phát triển ngành, lĩnh vực hiện nay trước những thay đổi nhanh chóng của bối cảnh bên ngoài và tiến trình hội nhập quốc tế sâu rộng của đất nước. Văn kiện Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định, việc quán triệt và xử lý tốt các mối quan hệ lớn, trong đó có quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế, là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của đất nước ta trong giai đoạn tới.
Quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế của Việt Nam từ thực tiễn 30 năm đổi mới
Vào giữa thập niên 80 của thế kỷ XX, đất nước ta phải đối mặt với những khó khăn nghiêm trọng. Cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp kéo dài đã làm triệt tiêu các động lực phát triển; đất nước bị cô lập, bị cấm vận và lệ thuộc vào viện trợ từ bên ngoài. Đời sống của nhân dân rất khó khăn, nghèo đói tăng nhanh, nền kinh tế - xã hội có thể sụp đổ bất cứ lúc nào, tư tưởng hoang mang lan rộng đặt chế độ chính trị trước thách thức to lớn.
Trước những khó khăn đó, Đại hội VI của Đảng (năm 1986) đã khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, trong đó có chủ trương “tham gia sự phân công lao động quốc tế”, “mở mang quan hệ kinh tế và khoa học - kỹ thuật” với bên ngoài(1). Tinh thần của Đại hội VI toát lên một tiếp cận mới rằng, độc lập, tự chủ không có nghĩa là biệt lập, “đóng cửa” với thế giới, từ đó mở đường cho tư duy về hội nhập kinh tế quốc tế trong những năm đầu đổi mới. Đại hội VII của Đảng (năm 1991) tiến thêm một bước với chủ trương cụ thể hơn: “Mở rộng, đa dạng hóa và đa phương hóa quan hệ kinh tế đối ngoại” và theo quan điểm chỉ đạo “thu hút các nguồn lực bên ngoài để phát huy mạnh mẽ các lợi thế và nguồn lực bên trong”(2). Tuy nhiên, công cuộc đổi mới diễn ra chưa được bao lâu thì Liên Xô và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu lâm vào khủng hoảng trầm trọng và tan rã, khiến lòng dân dao động, lo ngại về con đường đi tiếp của đất nước ta. Trong hoàn cảnh đó, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 ra đời, khẳng định bản lĩnh, trí tuệ của Đảng ta trong sự nghiệp lãnh đạo toàn dân kiên định con đường đổi mới, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Đó là minh chứng hết sức sinh động và ý nghĩa về tầm quan trọng của việc giữ vững độc lập, tự chủ trong lựa chọn con đường phát triển của đất nước ta trước những biến động to lớn của thời đại.
Từ một nền kinh tế khép kín, tự cấp, tự túc theo cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp, chúng ta đã tiến hành cải cách, mở cửa, chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy xuất khẩu, tiếp nhận viện trợ phát triển và thu hút đầu tư nước ngoài. Từ chỗ bị cô lập, bị cấm vận, chúng ta đã chủ động phá thế bao vây; bình thường hóa quan hệ với các nước lớn; thực hiện chủ trương muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế; củng cố nền độc lập, tự chủ của đất nước. Từ chỗ bị khủng hoảng nghiêm trọng, đến giữa thập niên 90, nền kinh tế nước ta đã đạt mức tăng trưởng cao và bước đầu hội nhập vào khu vực. Thực tế này đã khẳng định tính đúng đắn của công cuộc đổi mới. Đại hội VIII của Đảng (năm 1996) đã xác lập niềm tin vững chắc vào đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hóa và đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại(3), và tăng cường mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế nhằm tranh thủ các nguồn lực để phát triển. Tuy vậy, tiến trình thực hiện các cam kết hội nhập kinh tế khu vực và cải cách trong nước giai đoạn này vẫn rất chậm bởi tâm lý sợ cạnh tranh và ngập ngừng, lo ngại trước những tác động tiêu cực từ bên ngoài, nhất là khi cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á bùng phát.
Phải đến năm 2001, lần đầu tiên trong Văn kiện Đại hội IX của Đảng mới xuất hiện cụm từ “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”, đánh dấu sự thay đổi lớn trong tư duy phát triển và hội nhập của Việt Nam. Đại hội IX cũng nêu rõ quan điểm chỉ đạo: phải bảo đảm độc lập tự chủ, trước hết là độc lập tự chủ về đường lối, chính sách... Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước. Mở rộng quan hệ với các nước nhưng không để nền kinh tế Việt Nam bị lệ thuộc và bị chi phối của bên ngoài(4). Năm 2006, Đại hội X đã bổ sung thêm cụm từ “tích cực” và đề ra chủ trương: “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác...”(5). Sự bổ sung tuy không mang tính đột phá, nhưng khẳng định rõ hơn niềm tin vào lợi ích và tính tất yếu của tiến trình hội nhập quốc tế. Đại hội X đã đề ra quan điểm chỉ đạo là hội nhập kinh tế quốc tế “phải chủ động, có lộ trình phù hợp với bước đi tích cực, vững chắc, không do dự chần chừ, nhưng cũng không được nóng vội, giản đơn”(6).
Với việc chính thức trở thành thành viên Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) năm 2007, nền kinh tế nước ta đã hội nhập đầy đủ vào nền kinh tế toàn cầu. Các cam kết với WTO là khuôn khổ chung để chúng ta đẩy mạnh cải cách trong nước, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở đó, Ðại hội XI của Đảng (năm 2011) đã nâng tầm chủ trương thành “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”(7), được cụ thể hóa bằng Nghị quyết số 22-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XI (tháng 4-2013), để khẳng định rằng hội nhập quốc tế không còn bó hẹp trong lĩnh vực kinh tế mà mở rộng ra tất cả các lĩnh vực khác, kể cả chính trị, quốc phòng, an ninh và văn hóa - xã hội... Cũng kể từ Đại hội XI, các văn kiện của Đảng đã thống nhất dùng cụm từ “độc lập, tự chủ” (thêm dấu “,”) thay cho “độc lập tự chủ” để thể hiện đúng hai mặt “độc lập” và “tự chủ” của chủ quyền quốc gia trong phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
Việc quán triệt, xử lý thành công mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế đã góp phần quan trọng giúp đất nước ta đạt được những thành tựu phát triển to lớn, có ý nghĩa lịch sử qua 30 năm đổi mới. Nước ta đã tiến vào một chiều sâu mới trên quỹ đạo hội nhập quốc tế, thực hiện những điều chỉnh căn bản, nâng cao vị thế, quy mô và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế; độc lập dân tộc được củng cố, năng lực tự chủ quốc gia được tăng cường. Từ chỗ chỉ có quan hệ ngoại giao với hơn 30 nước vào năm 1986, đến nay nước ta đã có quan hệ ngoại giao với 187 nước; có quan hệ kinh tế với hơn 223 quốc gia và vùng lãnh thổ(8). Quan hệ của nước ta với tất cả các nước lớn đều phát triển tốt đẹp; đặc biệt, quan hệ với một số nước bắt đầu đi vào chiều sâu, thực chất và hiệu quả thông qua việc xác lập những khuôn khổ đối tác toàn diện và đối tác chiến lược(9). Từ chỗ đứng ngoài, nước ta đã là thành viên của hơn 70 tổ chức khu vực và thế giới. Từ chỗ chỉ có các hiệp định kinh tế song phương dựa trên nguyên tắc lỏng lẻo, nước ta đã tiến tới có các hiệp định kinh tế mang tính thể chế cao hơn trên cả cấp độ song phương, đa phương khu vực và toàn cầu, trong đó có những hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới, như Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), Hiệp định thương mại Việt Nam - Liên minh châu Âu (VEFTA),... thể hiện sự tích cực, chủ động đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sâu, rộng(10).
Từ việc quán triệt, xử lý mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế trong thời gian qua, chúng ta có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm:
Một là, độc lập, tự chủ trong đánh giá các thay đổi của bối cảnh quốc tế, khu vực; từ đó có phản ứng chính sách phù hợp với điều kiện của đất nước, tương thích với thông lệ và cách tiếp cận chung của thế giới. Trong thời gian qua, nhận thức của chúng ta về hội nhập quốc tế vẫn chưa theo kịp sự biến đổi của thế giới, đánh giá chưa đầy đủ về thách thức và cơ hội mà hội nhập quốc tế đem lại, nên có lúc mang nặng tính chủ quan, nóng vội, có lúc lại thiên về tư tưởng dè dặt, cầm chừng. Nhận thức và sự tự chuẩn bị của các doanh nghiệp cũng như hỗ trợ của Nhà nước đối với doanh nghiệp để chuẩn bị cho việc tham gia hội nhập còn hạn chế. Các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhà nước, còn tồn tại suy nghĩ trông chờ, ỷ lại vào bao cấp và bảo hộ của Nhà nước. Vì vậy, không ít chủ trương, cơ chế, luật lệ và chính sách chậm được đổi mới để phù hợp với yêu cầu hội nhập, chưa tận dụng được hết những cơ hội để cải cách và phát triển.
Hai là, nhất thiết và luôn giữ độc lập, tự chủ trong việc xác định đường lối, chính sách và phương thức phát triển. Trong đó, cần giữ vững độc lập, tự chủ khi chọn lựa bước đi trong quá trình hội nhập: tham gia các tổ chức quốc tế nào, ký kết các hiệp định nào, với những điều kiện, lộ trình ra sao. Độc lập, tự chủ cần thể hiện ngay trong quá trình đàm phán, đấu tranh gia nhập; chủ động, sáng tạo thực thi các cam kết quốc tế để tận dụng những cơ hội mở ra và đối phó với những thách thức nảy sinh.
Để tránh những sức ép rất lớn từ bên ngoài, chúng ta không chỉ kiên định mà còn phải khôn khéo xử lý, giải tỏa những sức ép đó; và việc làm này phải tính đến những xu thế, những chiều hướng phát triển trên thế giới để có quyết sách thích hợp. Tuy nhiên, chúng ta cũng chưa đạt tới sự nhất trí cao trong nhận thức và hành động khi coi hội nhập quốc tế và bảo đảm độc lập, tự chủ là sự nghiệp của toàn dân và cả hệ thống chính trị.
Ba là, để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trong quá trình đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, năng lực bên trong đóng vai trò quyết định để hóa giải nguy cơ từ bên ngoài, tận dụng cơ hội mà hội nhập đem lại.
Bối cảnh quốc tế mới và những vấn đề đặt ra cho độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế của Việt Nam
Cục diện thế giới và khu vực đang thay đổi nhanh chóng, phức tạp, ảnh hưởng sâu sắc đến xử lý mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế của nước ta.
Tính bất định, khó dự báo của các khuynh hướng phát triển toàn cầu đang đưa đến những rủi ro không nhỏ đối với quá trình hội nhập quốc tế của đất nước ta. Kinh tế thế giới vẫn đang trong thời kỳ chưa ổn định, tăng trưởng diễn ra không đều, nhiều nền kinh tế mới nổi rơi vào trì trệ hoặc suy thoái; giá cả của nhiều hàng hóa cơ bản, năng lượng, nguyên liệu giảm mạnh; tỷ giá của các đồng tiền lớn biến động; các dòng vốn đầu tư di chuyển khó lường. Hiệu ứng “lan truyền” nhanh chóng của những cú sốc bên ngoài sẽ đem lại thách thức phức tạp, nhất là khi năng lực đối phó của đất nước ta vẫn chưa đủ mạnh, các yếu kém nội tại của nền kinh tế vẫn chưa được xử lý.
Sự đan xen của các quá trình hội nhập đa phương và song phương đang đưa thế giới đến một “cấu trúc ma trận” các FTA trên nhiều tuyến và nhiều cấp độ, trong đó phải kể đến các FTA thế hệ mới và những “siêu FTA” như TPP. Các quốc gia nào trở thành tâm điểm, đầu mối của các FTA này sẽ có nhiều cơ hội phát triển, đóng vai trò quan trọng hơn trong hệ thống kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, sự thay đổi chính sách trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng toàn diện và sâu sắc, tác động mạnh mẽ đến độc lập, tự chủ của nước ta. Việc quyết định tham gia các FTA thế hệ mới vừa là bước chuyển, vừa là thách thức mới đối với nền kinh tế nước ta. Sức ép làm thay đổi chính sách đến theo nhiều kênh, nhiều tuyến sẽ tạo ra tác động nhiều chiều, khó đối phó và kiểm soát. Nhiều nhóm lợi ích kinh tế khác nhau, thậm chí đối lập nhau, cũng sẽ hình thành và là một trong những nguyên nhân tiềm tàng gây mâu thuẫn trong xã hội, đặt nước ta vào những quyết định khó khăn khi phải xử lý các vấn đề nảy sinh trong tiến trình hội nhập. Hơn nữa, bản thân các FTA là không đủ để giúp Việt Nam hiện thực hóa các mục tiêu phát triển đất nước. Mặc dù có thể giúp tiếp cận tốt hơn thị trường của các đối tác, gia tăng khối lượng thương mại và đầu tư trong ngắn hạn, nhưng các FTA vẫn không bảo đảm được nền kinh tế Việt Nam có thể vượt lên khỏi phân khúc thấp của chuỗi giá trị toàn cầu hay đem lại nhiều việc làm có năng suất cao hơn, bởi lẽ những điều này chủ yếu phụ thuộc vào tiến độ cải cách trong nước. Trong xu thế cạnh tranh ngày càng gay gắt, thách thức đối với nền kinh tế nước ta đã trở nên hiện hữu trong khi cơ hội mà hội nhập đem lại mới chỉ ở dạng tiềm năng.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư diễn ra nhanh chóng, đặc biệt với những đột phá công nghệ trong các lĩnh vực, như trí tuệ nhân tạo, rôbốt, intơnét kết nối vạn vật, công nghệ in ba chiều, công nghệ nano, công nghệ sinh học, lưu trữ năng lượng... đem đến sự thay đổi vượt bậc cho chất lượng cuộc sống, việc làm, sản xuất và các quan hệ chính trị - xã hội. Xu thế đổi mới công nghệ diễn ra với tốc độ rất nhanh đặt ra nhiều vấn đề về mô hình phát triển và con đường “đi tắt, đón đầu” của các nước. Bước chuyển nhanh sang nền kinh tế tri thức và tầm quan trọng của tiến bộ khoa học và công nghệ trong bối cảnh toàn cầu hóa đưa đến ba cách tiếp cận phát triển mới: 1- Lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh thuộc về những ngành dựa trên tri thức và công nghệ cao; 2- Nguồn lực phát triển quan trọng nhất là tri thức và trí tuệ con người; 3- Việc tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu tạo cho các nước và các nhà sản xuất có được cơ hội phát triển hiệu quả nhất. Đây là thách thức rất lớn đối với nền kinh tế nước ta khi quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa vẫn theo chiều rộng, dựa vào lao động kỹ năng thấp và khai thác tài nguyên. Thời gian qua, mô hình này đã tạo ra nhiều việc làm và tạo thu nhập cho một bộ phận lớn dân cư, nhưng nếu tiếp tục duy trì thì càng hội nhập sâu hơn, chúng ta càng có nguy cơ rơi vào “bẫy” gia công, lắp ráp và vướng vào những nấc thang thấp của chuỗi giá trị toàn cầu. Hơn nữa, kỳ vọng tận dụng mức thuế suất bằng 0 mà các FTA đem lại cho nước ta để đẩy mạnh xuất khẩu rất dễ bị đảo ngược. Với việc ứng dụng các công nghệ mới như rô-bốt, các quá trình sản xuất thâm dụng lao động sẽ dịch chuyển trở về những nước phát triển; nhờ chi phí giảm mạnh hơn, những nước này sẽ có lợi thế xuất khẩu ngược hàng hóa sang Việt Nam. Các FTA thế hệ mới như TPP hay VEFTA có nguy cơ trở thành “con ngựa thành Tơ-roa” và là “cái bẫy hội nhập” cho quá trình phát triển của nước ta trong thời gian tới.
Cùng với sự bấp bênh của môi trường kinh tế toàn cầu, môi trường chính trị và an ninh thế giới cũng biến động khó lường, ẩn chứa nhiều rủi ro cho quá trình phát triển. Các nước lớn cạnh tranh gay gắt với nhau để mở rộng ảnh hưởng. Tương quan sức mạnh và tập hợp lực lượng của các cường quốc thay đổi nhanh chóng, đặt các nước nhỏ đứng trước những lựa chọn chính sách khó khăn. Sự phức tạp trong quan hệ giữa các nước lớn đòi hỏi nước ta phải có đối sách thận trọng, mềm dẻo và khôn khéo để duy trì quan hệ cân bằng, tạo thế đan xen lợi ích, giữ vững độc lập, tự chủ, tránh bị rơi vào thế đối đầu hay lệ thuộc, không để các nước khác áp đặt hoặc lôi kéo, tạo môi trường bên ngoài thuận lợi cho phát triển. Ở một vị trí địa - chiến lược quan trọng, việc lựa chọn chiến lược đối tác sẽ rất khó khăn, rất khó giữ quan điểm “trung tính”, cần có thái độ rõ ràng. Xác lập “lòng tin chiến lược” và tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau luôn là thách thức của các nước nhỏ trong quan hệ với các nước lớn.
Bên cạnh đó, các vấn đề khủng bố, di dân, biến đổi khí hậu toàn cầu, nước biển dâng, các hiện tượng thời tiết cực đoan, thảm họa tự nhiên và dịch bệnh lây lan, ô nhiễm môi trường... đang trở thành những thách thức an ninh phi truyền thống, đòi hỏi nước ta phải tăng cường năng lực, chuẩn bị nguồn lực để sẵn sàng ứng phó với các tình huống khẩn cấp. Sự gia tăng các mất cân bằng toàn cầu cùng các áp lực thiếu hụt về tài nguyên, năng lượng, đất đai, nguồn nước... rất có thể sẽ đặt nền kinh tế Việt Nam phải đối mặt với nhiều khó khăn hơn về cạnh tranh, tranh chấp. Việc tăng cường hợp tác, tìm ra giải pháp hợp lý để quản lý và giải quyết xung đột phát triển với các nước láng giềng, cùng nhau xây dựng một cộng đồng khu vực hòa bình và thịnh vượng là vấn đề mà Việt Nam phải đặc biệt quan tâm trong thời gian tới.
Cục diện khu vực Đông Nam Á và Đông Á cũng đang chuyển biến nhanh chóng với việc hình thành Cộng đồng ASEAN (AC), thể hiện nỗ lực mạnh mẽ của khối này để trở thành tâm điểm của tiến trình hội nhập ở châu Á. Với vị thế của một nước lớn và là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, Trung Quốc đang đẩy mạnh cạnh tranh chiếm lĩnh các không gian phát triển(11). Chiến lược biển - đại dương của Trung Quốc đặt mục tiêu hướng kinh tế nước này nhanh chóng quá độ từ ưu tiên “đại lục” sang đột phá “biển”, biến các vùng ven biển là “cầu nối” và là “cửa ngõ” với bên ngoài, đồng thời tăng cường chiếm lĩnh, kiểm soát các vùng tranh chấp trên biển, gây căng thẳng trong quan hệ với các nước láng giềng. Bằng việc triển khai một loạt sáng kiến liên kết kinh tế, Trung Quốc thể hiện rõ phương châm chi phối tiến trình phát triển ở Tiểu vùng Mê Công và khu vực Đông Nam Á, lấy đó làm bàn đạp để vươn ra thế giới. Sự hình thành những cơ chế mới do Trung Quốc đề xuất, từ các khu kinh tế cửa khẩu xuyên biên giới, hành lang kinh tế Bắc - Nam thuộc Tiểu vùng Mê Công, trục đường sắt xuyên Á,... cho đến các định chế mang tầm ảnh hưởng toàn cầu, như “Một vành đai, một con đường”(12), Ngân hàng Đầu tư hạ tầng châu Á (AIIB), quốc tế hóa đồng nhân dân tệ... vừa là cơ hội, vừa là thách thức không nhỏ, tạo sức ép rất lớn cho các nước cận kề trong việc lựa chọn chính sách tham gia.
Với những chính sách đảo chiều, chuyển từ việc chỉ tiếp nhận đầu tư nước ngoài sang tích cực đầu tư ra thế giới, Trung Quốc đang “chuyển dịch” mạnh những ngành tiêu tốn nhiều năng lượng, nguyên liệu, lao động và gây ô nhiễm môi trường ra các nước kém phát triển hơn. Ngoài ra, Trung Quốc sẽ vẫn tiếp tục có nhu cầu rất lớn về nguyên liệu, năng lượng, thị trường tiêu thụ hàng hóa dư thừa. Với phương châm: bảo toàn nguồn lực quốc gia, gia tăng khai thác và sử dụng các nguồn lực bên ngoài, xa trước, gần sau... sự phát triển mất cân bằng và nhiều thiếu hụt lớn của Trung Quốc sẽ gây áp lực lớn đối với những nước liền kề trong khu vực(13).
Quán triệt sâu sắc những quan điểm, đường lối của Đại hội XII về quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế
Giữ vững độc lập, tự chủ và thực hiện hiệu quả hội nhập quốc tế là vấn đề xuyên suốt trong các nội dung của Văn kiện Đại hội XII, đồng thời được đúc kết ở nhiệm vụ thứ tư trong sáu nhiệm vụ trọng tâm của nhiệm kỳ này. Tinh thần của Đại hội XII làm nổi bật một số quan điểm, đường lối sau trong việc quán triệt và xử lý mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế trong giai đoạn tới:
Thứ nhất, xác định lợi ích quốc gia là mục tiêu cao nhất trong việc quán triệt, xử lý mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế.
Độc lập, tự chủ là ước nguyện cao cả, nhưng không phải là mục đích cuối cùng của mỗi quốc gia. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”(14). Độc lập, tự chủ của mỗi quốc gia gắn liền với các lợi ích cơ bản của quốc gia, dân tộc; là phương tiện để đạt được các lợi ích quốc gia, dân tộc.
Trong mỗi giai đoạn và hoàn cảnh khác nhau, các lợi ích và mục tiêu ưu tiên, cụ thể của quốc gia cũng thay đổi nên nhận thức về độc lập, tự chủ cũng cần phải thay đổi. Để hội nhập có hiệu quả, không thể tuyệt đối hóa độc lập, tự chủ và quan niệm về độc lập, tự chủ theo kiểu nhất thành bất biến. Đồng thời, cũng không thể tôn thờ hội nhập thái quá, cho rằng hội nhập là “liều thuốc trị bách bệnh” đối với sự phát triển và trong thời đại toàn cầu hóa, không cần và không thể duy trì độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia. Vận dụng hiệu quả, phù hợp với thời thế phương châm giữ vững độc lập, tự chủ sẽ mở ra nhiều cơ hội cho phép quốc gia phát triển nhanh, tích lũy năng lực, song nếu vận dụng sai có thể đánh mất các cơ hội, kìm hãm sự phát triển, xói mòn sức mạnh của đất nước. Chiến lược tổng thể hội nhập quốc tế của Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 được ban hành vào tháng 1-2016 khẳng định: “mục tiêu tổng quát của hội nhập quốc tế đến năm 2030 là nhằm góp phần tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia”(15). Quan niệm về độc lập, tự chủ trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu, rộng của Việt Nam cần được vận dụng thận trọng, nhưng không chậm trễ; đồng thời phải linh hoạt, khôn khéo, cho phép mở ra những điều chỉnh phù hợp, nhằm bảo đảm mục tiêu an ninh, phát triển và nâng cao vị thế của đất nước.
Thứ hai, kiên định nguyên tắc độc lập, tự chủ; giữ vững phương châm đa phương hóa, đa dạng hóa trong hội nhập quốc tế; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ lợi ích, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ.
Đẩy mạnh hội nhập, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ sẽ giúp tăng cường độc lập, tự chủ của đất nước thông qua sự gia tăng tùy thuộc lẫn nhau giữa nước ta với các đối tác. Do vậy, Đại hội XII tiếp tục chú trọng phương châm đối ngoại: Việt Nam “là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”; “chủ động và tích cực đóng góp xây dựng, định hình các thể chế đa phương”; “đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là các đối tác chiến lược và các nước lớn có vai trò quan trọng đối với phát triển và an ninh của đất nước”(16).
Trên phương diện kinh tế, Đại hội XII nhấn mạnh sự cần thiết phải “đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ kinh tế quốc tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác cụ thể”(17), tránh sự “tùy thuộc lẫn nhau bất đối xứng.” Đây là điểm nhấn có ý nghĩa hết sức quan trọng trong bối cảnh hiện nay của đất nước ta. Sự lựa chọn hạn chế về đối tác là một trong những nguyên nhân gây ra mất độc lập, tự chủ vì nó làm cho quốc gia phải lệ thuộc vào chính sự lựa chọn này. Tăng cường đa dạng hóa và mở rộng quan hệ đối ngoại với nhiều đối tác, thực hiện nhiều cách thức hội nhập với các lộ trình linh hoạt theo nhiều phương, nhiều tuyến, nhiều tầng là cách thức để tạo ra một dải lựa chọn rộng lớn, khiến nước ta không bị lệ thuộc vào bên ngoài. Việc tham gia nhiều FTA giúp nước ta đa dạng hóa tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, tăng cường độc lập, tự chủ của nền kinh tế. Tuy nhiên, cần hướng tới các FTA thế hệ mới, theo những đẳng cấp, chuẩn mực cao và có sự tham gia của các nền kinh tế phát triển để từ đó có những cải cách trong nước phù hợp theo chuẩn mực quốc tế.
Thứ ba, tăng cường năng lực, sức mạnh tổng hợp quốc gia, tạo lập nền tảng để bảo đảm độc lập, tự chủ và đẩy mạnh hội nhập quốc tế.
Tăng cường sức mạnh tổng hợp của đất nước, trọng tâm là năng lực kinh tế, là định hướng cơ bản nhất để hóa giải nguy cơ mất độc lập, tự chủ và tận dụng tốt nhất các cơ hội phát triển mà hội nhập đem lại. Để làm được điều này, trước hết cần chủ động và tích cực xử lý các yếu kém, mất cân bằng phát triển nội tại tiềm ẩn nguy cơ phương hại đến độc lập, tự chủ trong tiến trình hội nhập. Áp lực gia tăng từ tiến trình hội nhập làm lộ diện những yếu kém, thậm chí làm trầm trọng thêm những bất cập hiện có. Tuy nhiên, hội nhập cũng gợi mở những giải pháp và đem lại nguồn lực mới giúp xử lý những yếu kém, bất cập này. Bởi vậy, cần bảo đảm sự phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng giữa tiến trình cải cách trong nước và tiến trình hội nhập sâu, rộng và nhanh chóng. Nếu như trong thời kỳ đầu của đổi mới, chính hội nhập kinh tế quốc tế là sức ép quan trọng để thúc đẩy cải cách nền kinh tế, thì hiện nay chính tiến trình cải cách bên trong mới giữ vai trò quyết định hiệu quả của hội nhập quốc tế.
Từ nội dung của Văn kiện Đại hội XII, việc quán triệt, xử lý mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế trong các lĩnh vực phát triển cần nhận thức được những vấn đề cơ bản sau:
Trong lĩnh vực kinh tế, trọng tâm là đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; hoàn thiện thể chế, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cần chú trọng tăng khả năng hấp thụ công nghệ, tri thức và nuôi dưỡng đổi mới sáng tạo của nền kinh tế. Các chính sách phải hướng vào việc hỗ trợ doanh nhân vượt qua những rào cản, rủi ro về vốn và nguồn nhân lực chất lượng cao... để hiện thực hóa các ý tưởng khởi nghiệp liên quan đến công nghệ và đổi mới. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cần hướng nền kinh tế nước ta điều chỉnh trở thành một mắt xích trong mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu của các công ty xuyên quốc gia. Do vậy, để hội nhập hiệu quả, cần tăng cường mối liên kết giữa các doanh nghiệp trong nước và khu vực nước ngoài sử dụng nhiều công nghệ. Không chấp nhận thu hút đầu tư nước ngoài bằng mọi giá; thay vào đó, kêu gọi đầu tư mạnh hơn vào các ngành dịch vụ trung gian, các ngành dựa trên công nghệ hiện đại... để một mặt, thúc đẩy phát triển các lĩnh vực này, hiện đại hóa hệ thống kết cấu hạ tầng xương sống bảo đảm tính kết nối và sẵn sàng công nghệ; mặt khác, khắc phục được điểm yếu về hạn chế nguồn lực, tri thức, kỹ năng quản trị và thiếu kinh nghiệm của doanh nghiệp Việt Nam(18).
Cần thiết lập nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế(19). Đây là luận điểm lần đầu tiên được khẳng định trong Văn kiện Đại hội XII nhưng rất cần thiết và phù hợp với thực tiễn hội nhập và phát triển của đất nước hiện nay đã đưa nền kinh tế Việt Nam trở thành một bộ phận hữu cơ của nền kinh tế thị trường thế giới. Nhấn mạnh tính đầy đủ, hiện đại và hội nhập của nền kinh tế là sự khẳng định việc tuân thủ các chuẩn mực chung của thế giới để phát triển, và quan trọng hơn, là phải tuân thủ các cam kết quốc tế đã ký, nỗ lực cải cách bên trong, đáp ứng các tiêu chí của nền kinh tế thị trường. Trong nỗ lực hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, Nhà nước phải chuyển từ vai trò can thiệp trực tiếp sang hỗ trợ và quản lý phát triển, trong đó tập trung ổn định kinh tế vĩ mô, xử lý các yếu kém nội tại của nền kinh tế, như nợ xấu, nợ công, rủi ro tỷ giá và lạm phát, cải cách doanh nghiệp nhà nước, lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng thương mại...; thiết lập khuôn khổ pháp luật, chính sách và bộ máy thực thi bảo đảm các loại thị trường liên tục được hoàn thiện, hoạt động minh bạch, hiệu quả và có cạnh tranh bình đẳng. Ngoài ra, với một tư duy mới, linh hoạt hơn trong quan niệm về độc lập, tự chủ và chủ quyền quốc gia, Đại hội XII đã đề ra chủ trương: “xây dựng một số đặc khu kinh tế để tạo cực tăng trưởng và thử nghiệm thể chế phát triển vùng có tính đột phá”(20).
Trong lĩnh vực chính trị, trọng tâm là xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Để tiến trình đổi mới toàn diện đất nước tiếp tục đi lên, đổi mới kinh tế phải tiến hành đồng bộ, hài hòa với đổi mới chính trị, cải cách hành chính, cải cách lập pháp, tư pháp(21). Khâu then chốt ở đây là không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, năng lực quản trị của Nhà nước trong quá trình hội nhập, xây dựng một Chính phủ liêm chính, phục vụ và hỗ trợ phát triển. Dưới sức ép của hội nhập và nhờ tiến bộ khoa học công nghệ, đặc biệt trong lĩnh vực thông tin và truyền thông, việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp của Nhà nước chắc chắn sẽ chịu sự giám sát, phản biện ngày càng tăng từ phía cộng đồng xã hội, các doanh nghiệp và người dân. Không nên coi đây là sự giảm sút tự chủ mà từ thực tế đó, cần coi việc tăng cường dân chủ, minh bạch và trách nhiệm giải trình với nhân dân là yếu tố quan trọng tạo ra đồng thuận và ủng hộ của xã hội đối với các quyết sách của Nhà nước; đặc biệt cần thúc đẩy dân chủ, bảo đảm hơn các cơ hội cạnh tranh bình đẳng trong kinh tế.
Trong lĩnh vực an ninh - quốc phòng, trọng tâm là bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Hội nhập quốc tế cần giúp tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ công cuộc đổi mới, xử lý tốt các thách thức xuyên quốc gia và những vấn đề an ninh phi truyền thống, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội(22). Đặc biệt, cần tăng cường năng lực quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; xây dựng lực lượng quân đội, công an cách mạng từng bước chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, đủ sức đối phó với những thách thức mới nảy sinh trong bối cảnh quốc tế diễn biến phức tạp, các tình huống của thời đại công nghệ, như mất an ninh mạng, an ninh thông tin; các tác động bên ngoài đang trở nên nghiêm trọng hơn, như khủng bố, bạo loạn, âm mưu kích động chống phá chế độ...; các nguy cơ có khả năng xảy ra thường xuyên hơn, như dịch bệnh, thiên tai và thảm hoạ công nghiệp... Cả nước và các địa phương cần vừa nâng cao năng lực ứng phó, vừa tích cực tham gia nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế để đối phó với các thách thức an ninh phi truyền thống và phát triển.
Trong lĩnh vực xã hội, văn hóa và phát triển con người, trọng tâm là thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện. Chủ động và tích cực hội nhập, bảo đảm độc lập, tự chủ là nhằm hướng tới những thuộc tính nhân văn của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, vì lợi ích của đại đa số nhân dân, hướng vào con người, vì con người, lấy con người làm trung tâm của sự phát triển, mọi người được tham gia và mọi người được hưởng lợi. Do vậy, cần nhận diện đúng đắn bản chất của mâu thuẫn và nguyên nhân nảy sinh mâu thuẫn và các xung đột trong xã hội, đặc biệt những mâu thuẫn có nguồn gốc kinh tế, dân tộc, tôn giáo, môi trường..., từ đó lựa chọn và thực thi các biện pháp giải quyết mềm dẻo, kiên trì đối thoại và xử lý dứt điểm. Chú trọng giải quyết các vấn đề nông nghiệp - nông dân - nông thôn để thu hẹp khoảng cách giàu nghèo. Đồng thời với việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chú trọng xây dựng các thiết chế xã hội tương thích để dự báo và ngăn ngừa các rủi ro, xung đột nảy sinh trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa.
*
* *
Để triển khai thực hiện thắng lợi và đưa Nghị quyết Đại hội XII của Đảng vào cuộc sống đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục có tư duy đổi mới, có những giải pháp đồng bộ, sáng tạo; đặc biệt phải có quyết tâm chính trị cao và hành động quyết liệt, cụ thể, bám sát thực tiễn hết sức sinh động của đất nước. Các quan điểm mới, linh hoạt về độc lập, tự chủ và chủ quyền quốc gia, về tăng cường năng lực nội tại của đất nước, bảo đảm sự phối hợp đồng bộ giữa tiến trình cải cách trong nước với tiến trình hội nhập quốc tế, giữa đổi mới kinh tế với đổi mới hệ thống chính trị,... cần được nhận thức rõ, luận giải một cách đúng đắn trong việc quán triệt, xử lý mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế trong giai đoạn phát triển tới./.
---------------------------------------------
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1987, tr. 81.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 119.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 120.
(4) Tài liệu nghiên cứu Văn kiện Đại hội IX của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 216-217.
(5), (6) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 112, 180-181.
(7) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 236.
(8) Bộ Ngoại giao: Dự thảo Đề án “Thực hiện hiệu quả tiến trình hội nhập quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các FTA thế hệ mới, trong đó có Hiệp định TPP và Cộng đồng kinh tế ASEAN”, ngày 16-7-2016, Hà Nội.
(9) Việt Nam đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với 15 nước, quan hệ đối tác toàn diện với 10 nước.
(10) Đến nay, Việt Nam đã tham gia và đang đàm phán 16 FTA.
(11) Phạm Sao Mai: “Trung Quốc và chiến lược đối ngoại đến 2020”; Xem Phạm Bình Minh (Chủ biên): Cục diện thế giới đến 2020, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội Sự thật, 2010, tr. 454.
(12) Gồm: “Vành đai kinh tế con đường tơ lụa” và “Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ XXI”.
(13) Nguyễn Hồng Sơn, Nguyễn Mạnh Hùng: “Cộng đồng kinh tế ASEAN trong bối cảnh quốc tế mới”, tạp chí Những vấn đề kinh tế và Chính trị thế giới, số 7 (219), 2014.
(14) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 4 , tr. 56.
(15) Chiến lược tổng thể hội nhập quốc tế đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, ban hành kèm theo Quyết định số 40/QĐ-TTg, ngày 7-1-2016, của Thủ tướng Chính phủ, tr. 8.
(16), (17), (19), (20), (22) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, tr. 153-155, 111, 102, 96, 147-148.
(18) Nguyễn Xuân Thắng (Chủ biên): Kinh tế thế giới và Việt Nam 2015-2016: Thúc đẩy tăng trưởng và phát triển trong bối cảnh có nhiều thay đổi, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2016.
(21) Nguyễn Viết Thảo: “Đảm bảo mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế”, tạp chí Lý luận chính trị, số 5-2011.
GS. TS. Nguyễn Xuân Thắng
Ủy viên Trung ương Đảng, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Bài viết liên quan | Xem tất cả
- Đồng chí Hoàng Văn Thụ với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc
- Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từ trần
- Đồng chí Nguyễn Văn Tố - Nhà lãnh đạo tài năng, học giả uyên bác của Việt Nam
- Đồng chí Hoàng Đình Giong, lãnh đạo tiền bối tiêu biểu của Đảng và cách mạng Việt Nam
- Đồng chí Đào Duy Tùng với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc
- Đồng chí Nguyễn Lương Bằng - Người chiến sĩ cộng sản mẫu mực, người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
- Xây dựng và phát triển nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, mang đậm bản sắc “Cây tre Việt Nam”
- Sách đồng hành cùng doanh nghiệp trong thời đại công nghệ số
- Đồng chí Lương Khánh Thiện - người chiến sĩ cộng sản kiên trung, trọn đời cống hiến cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc
- Kỷ niệm 116 năm Ngày sinh Tổng Bí thư Lê Duẩn (07/4/1907 - 07/4/2023): Nhà lãnh đạo kiệt xuất trọn đời vì nước, vì dân
- Đồng chí Chu Huy Mân - Người cộng sản kiên cường, nhà chính trị xuất sắc của Đảng và Quân đội nhân dân Việt Nam (17/3/1913 - 17/3/2023)
- Đồng chí Huỳnh Tấn Phát - Người cộng sản kiên trung mẫu mực