Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh - nhân tố quyết định sự ổn định và phát triển bền vững chế độ chính trị ở Việt Nam

Ngày đăng: 05/04/2017 - 10:04

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII đã đặt ra yêu cầu cần tăng cường chỉnh đốn Đảng và xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, vì đây là nhân tố phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” để bảo đảm sự ổn định và phát triển bền vững chế độ chính trị ở Việt Nam. Toàn thể dân tộc Việt Nam đang đòi hỏi Đảng ta phải làm thật tốt công việc này. Vì chỉ có như thế, chúng ta mới có thể tạo ra được sự chuyển biến rõ rệt, mạnh mẽ, góp phần khắc phục hiệu quả những hạn chế, yếu kém trong công tác xây dựng Đảng, nhằm xây dựng Đảng ta thật sự là Đảng cách mạng chân chính, ngày càng trong sạch, vững mạnh, củng cố niềm tin trong Đảng và nhân dân, bảo đảm Đảng ta ngang tầm với trọng trách lịch sử trong thời kỳ mới.

4.4.2017 Lan ảnh Xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh - nhân tố quyết định

Sự ổn định và phát triển bền vững của một chế độ chính trị phụ thuộc vào nhiều nhân tố: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Chế độ chính trị ở nước ta hiện nay là chế độ xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo, là chế độ nhất nguyên chính trị, do nhân dân làm chủ. Đảng vừa là hạt nhân của hệ thống chính trị, vừa là người lãnh đạo hệ thống chính trị, là tổ chức nòng cốt của chế độ chính trị, vừa là lực lượng lãnh đạo chế độ chính trị. Đảng là “lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội” (Hiến pháp năm 2013). Chính vì vậy, sự tồn tại và phát triển của Đảng, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng có ý nghĩa quyết định đến sự ổn định và phát triển bền vững chế độ chính trị ở nước ta hiện nay và lâu dài.

Đảng Cộng sản Việt Nam - cơ sở chính trị của chế độ chính trị nước ta

Năm 1930 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc cách mạng lâu dài, anh dũng, vì độc lập dân tộc, tự do và hạnh phúc của nhân dân. Năm 1945 dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta đã đứng lên làm cuộc Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cách mạng Tháng Tám thành công đã xác lập chế độ chính trị kiểu mới - chế độ chính trị của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Trải qua các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, chế độ chính trị này đã được nhân dân ta ủng hộ, bảo vệ và phát triển. Từ chế độ dân chủ nhân dân đến chế độ xã hội chủ nghĩa là một bước phát triển mới về nội dung và hình thức tổ chức quyền lực chính trị, phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng trong từng giai đoạn, phù hợp với sự biến đổi của tình hình thế giới và trong nước qua từng thời kỳ. Các Hiến pháp năm 1946, năm 1959, năm 1980, năm 1992 và năm 2013 đã khẳng định quá trình phát triển cũng như những thành tựu về nhận thức và thực hiện chế độ chính trị mới ở nước ta. Sự ra đời, củng cố và phát triển chế độ chính trị kiểu mới ở nước ta gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, với đường lối đúng đắn của Đảng, với sự tích cực hoạt động của cán bộ, đảng viên ở các cấp, các ngành, với sự tham gia, ủng hộ của đông đảo quần chúng nhân dân.

Chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay được thể hiện và thực hiện chủ yếu thông qua:

- Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, việc đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh.

- Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

- Xây dựng và phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân. Nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tôn trọng và bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.

- Đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị; phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, tăng cường gắn bó mật thiết với nhân dân.

Chế độ chính trị của nước ta dựa trên 3 trụ cột: Đảng - Nhà nước - Nhân dân với các chức năng khác nhau là “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Muốn chế độ vững bền phải củng cố, xây dựng tốt 3 trụ cột này: Đảng phải trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; Nhà nước cũng phải trong sạch, vững mạnh, chất lượng, hiệu quả, năng động trong quản lý, điều hành; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ phẩm chất và năng lực hoàn thành nhiệm vụ; nhân dân thực sự là “gốc” của nước, thực sự là người chủ và làm chủ, có sự gắn bó mật thiết với Đảng và Nhà nước; chính sách của Đảng và Nhà nước phải được lòng dân, “được lòng dân là được tất cả, mất lòng dân là mất tất cả”, thực sự vì lợi ích của nhân dân, dân có yên thì chế độ mới ổn, mới vững bền. Làm sao để người dân coi chế độ chính trị này là của họ chứ không phải của ai khác. Trong 3 trụ cột đó, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, gắn bó mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân là nhiệm vụ sống còn để duy trì và giữ vững chế độ chính trị ở nước ta.

Trong những năm đổi mới, bên cạnh những thành tựu to lớn đạt được, đất nước ta cũng đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức không nhỏ. Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn tồn tại và diễn biến phức tạp. Công tác xây dựng Đảng còn không ít hạn chế, khuyết điểm. “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước”(1). Những khuyết điểm này mang tính chất tương đối phổ biến (“một bộ phận không nhỏ”) ở nhiều ngành, nhiều cấp, trong đó có cả một số cán bộ cao cấp, khuyết điểm này kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục. Những khuyết điểm đó rõ ràng là rất nghiêm trọng đối với một đảng có truyền thống cách mạng trên 86 năm như Đảng ta, gây tác hại lớn và lâu dài với Đảng và chế độ, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ, làm cho Đảng dần xa rời bản chất cách mạng và khoa học của một đảng cộng sản chân chính nếu không có giải pháp ngăn chặn hữu hiệu. Những khuyết điểm nêu trên, như Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII đã chỉ ra, “làm giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng; làm tổn thương và suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, là một nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ”. Do vậy, nếu không ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái trong Đảng, tình trạng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh thì không những không duy trì được sự tồn tại của Đảng mà cả chế độ xã hội chủ nghĩa cũng không còn. Bài học về sự tan rã của Đảng Cộng sản Liên Xô, sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa Xôviết cách đây 25 năm vẫn còn ý nghĩa nóng hổi cho đến ngày nay đối với nước ta.

Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII - Một số vấn đề đặt ra

Ngày 30-10-2016 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã ban hành Nghị quyết Trung ương 4 về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đây là Nghị quyết vừa có ý nghĩa cấp bách, vừa có ý nghĩa cơ bản lâu dài đối với việc giữ vững ổn định và phát triển bền vững chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Nghị quyết thể hiện quyết tâm chính trị cao, mạnh mẽ của Đảng ta trong công tác xây dựng Đảng. Nghị quyết yêu cầu cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng phải nhận thức sâu sắc nguy cơ, nhận diện đúng những biểu hiện và đề ra các giải pháp phù hợp; phải biến Nghị quyết thành hành động cụ thể, thiết thực, hiệu quả, thường xuyên liên tục, chỉ đạo quyết liệt; nói đi đôi với làm, xây đi đôi với chống; kiên quyết, kiên trì thực hiện Nghị quyết, phát huy sự chủ động, sáng tạo và sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo, quản lý, trước hết là cán bộ cấp cao, cán bộ chủ chốt, người đứng đầu các cấp trong việc nêu gương thực hiện Nghị quyết cũng như trong việc thực hiện trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Nghị quyết. Thông qua việc thực hiện Nghị quyết phải tạo sự chuyển biến rõ rệt tình hình Đảng và công tác xây dựng Đảng.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta rất quan tâm và coi trọng công tác xây dựng Đảng. Trong các kỳ Đại hội Đảng đều có báo cáo riêng về xây dựng Đảng hoặc báo cáo về công tác xây dựng Đảng nằm trong Báo cáo chính trị, có các nghị quyết chuyên đề về công tác xây dựng Đảng (như Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI...), tổ chức một số cuộc vận động về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Tuy nhiên, việc thực hiện các nghị quyết về xây dựng Đảng chưa đạt được một số mục tiêu đề ra. Đảng ta đã sớm phát hiện và cảnh báo về sự suy thoái tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, nhất là trong điều kiện Đảng cầm quyền. Tuy nhiên, những biểu hiện đó từ chỗ chỉ có ở một số người, một bộ phận nhỏ cán bộ, đảng viên, đã dần dần lan rộng thành “một bộ phận không nhỏ”, tức mang tính chất tương đối phổ biến. Từ Đại hội VIII đến Đại hội XII Đảng ta đều nhận định khuyết điểm đó là của “một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên” và mặc dù đã rất nỗ lực, kiên quyết phòng, chống, song tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên vẫn chưa bị đẩy lùi. Trong Văn kiện Đại hội XI và Đại hội XII, Đảng ta còn chỉ ra những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, những biểu hiện này làm xói mòn bản chất của Đảng, của chế độ ta, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Những diễn biến này diễn ra dần dần, từ từ, khó nhận thấy, đi từ những thay đổi về lượng sẽ dẫn đến thay đổi về chất bản thân Đảng và chế độ nếu không ngăn chặn được.

Công tác xây dựng Đảng trong thời kỳ đổi mới rất khác so với thời kỳ kháng chiến chống ngoại xâm hoặc thời kỳ của cơ chế tập trung bao cấp trước đây.

Có thể nói, xây dựng Đảng trong thời kỳ này nhiều mặt khó khăn, phức tạp hơn so với thời kỳ chiến tranh hoặc thời kỳ còn cơ chế kinh tế bao cấp. Sự tác động của mặt trái kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, sự tác động của sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, sự nổi lên của lợi ích kinh tế trong đời sống xã hội, sự trỗi dậy của chủ nghĩa cá nhân, “lợi ích nhóm”, chủ nghĩa thực dụng, vị kỷ,... trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Xây dựng Đảng trong điều kiện mới là chưa có tiền lệ trong lịch sử ở nước ta, hơn nữa lại chưa có sự chuẩn bị trước về mặt lý luận. Như Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã nhận định: “Xây dựng Đảng cầm quyền trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế là vấn đề mới và khó, phải vừa làm, vừa tìm tòi, tổng kết rút kinh nghiệm để đổi mới, hoàn thiện. Chậm đổi mới tư duy về công tác xây dựng Đảng trong điều kiện mới”(2). Đây là vấn đề đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu sâu, toàn diện, triệt để về lý luận xây dựng Đảng trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế, trong bối cảnh mới của tình hình thế giới và trong nước.

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII đã chỉ ra nguyên nhân khách quan và chủ quan, song xác định nguyên nhân chủ quan là chủ yếu. “Nguyên nhân sâu xa, chủ yếu của tình trạng suy thoái ở một bộ phận cán bộ, đảng viên trước hết là do bản thân những cán bộ, đảng viên đó thiếu tu dưỡng, rèn luyện, lập trường tư tưởng không vững vàng, hoang mang, dao động trước những tác động từ bên ngoài; sa vào chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, hẹp hòi, bị cám dỗ bởi các lợi ích vật chất, không làm tròn trách nhiệm, bổn phận của mình trước Đảng, trước dân”. Ở đây còn có trách nhiệm của công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về xây dựng Đảng chưa có chiều sâu, không theo kịp tình hình thực tế. Nhiều cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu các cấp chưa có quyết tâm chính trị cao, chỉ đạo thiếu quyết liệt, còn chung chung; nhiều cán bộ, đảng viên còn thiếu tiên phong, gương mẫu. Có thể nói, công tác xây dựng Đảng (công tác giáo dục chính trị tư tưởng, công tác lý luận, công tác tổ chức và cán bộ, công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, công tác dân vận,...) còn nhiều mặt bất cập.

Nguyên tắc tự phê bình và phê bình là một trong những nguyên tắc cơ bản của xây dựng Đảng, của tổ chức và hoạt động của Đảng Cộng sản. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng coi “tự phê bình và phê bình là thứ vũ khí sắc bén nhất, nó giúp cho Đảng ta mạnh và ngày càng thêm mạnh. Nhờ nó mà chúng ta sửa chữa khuyết điểm, phát triển ưu điểm, tiến bộ không ngừng”(3). Tuy nhiên, thời gian vừa qua nguyên tắc này trong thực hiện đã bị nhiều tác động không thuận, phát huy hiệu lực, hiệu quả thấp. Qua tổng kết thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI về xây dựng Đảng, Văn kiện Đại hội XII nhận định: “Trong tự phê bình và phê bình, tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm vẫn còn khá phổ biến, một số cán bộ, đảng viên chưa tự giác nhìn nhận đúng mức khuyết điểm và trách nhiệm của mình trong công việc được giao phụ trách. Trên một số vấn đề, qua kiểm điểm của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp từ Trung ương đến cơ sở vẫn chưa làm rõ thực chất, mức độ nghiêm trọng của tình hình, xảy ra ở đâu, ai chịu trách nhiệm, như tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; tình trạng chạy chức, chạy tội, tham nhũng, lợi ích nhóm”(4). Tâm lý “dĩ hòa vi quý”, “dễ người dễ ta”, “nặng tình, nhẹ lý” của nhiều người cũng làm hạn chế đến hiệu quả của tự phê bình và phê bình. Bởi vậy, cần tiếp tục kiên trì, mài sắc nguyên tắc này, song phải xây dựng các quy định, quy chế cụ thể thực hiện nguyên tắc này một cách chặt chẽ, nghiêm khắc, phối hợp với các nguyên tắc, các biện pháp khác, như có cơ chế kiểm tra, giám sát nội bộ Đảng và giám sát từ phía quần chúng nhân dân. Mọi cán bộ có quyền lực đều phải chịu sự giám sát, không để bất kỳ quyền lực nào từ to đến nhỏ đứng ngoài sự giám sát, rơi vào tình trạng tha hóa quyền lực (lạm quyền, lộng quyền, sử dụng quyền lực vì tư lợi, lợi ích nhóm...). Đối với những cán bộ, đảng viên vi phạm phải kiên quyết xử lý, xử lý kịp thời, chính xác, công khai, minh bạch, công bằng, coi trọng trách nhiệm giải trình. Xiết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng, Đảng có kỷ cương thì ngoài xã hội mới có kỷ cương. Phải đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ từ đánh giá, quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng, luân chuyển, sử dụng, bố trí, sắp xếp, đề bạt và chính sách cán bộ. Người đảng viên phải dám hy sinh lợi ích cá nhân vì lợi ích của tập thể, của Đảng, của dân tộc, phải bớt lòng “tham muốn về vật chất” và “tham muốn về quyền lực”. Phải chống chủ nghĩa cá nhân dưới mọi hình thức và thủ đoạn vì như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra, chủ nghĩa cá nhân là nguồn gốc đẻ ra trăm thứ bệnh, như quan liêu, tham nhũng, công thần, kiêu ngạo, mệnh lệnh...

Hiện nay, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” được biểu hiện rất rõ trong việc xa rời, phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng, xa rời mục tiêu, lý tưởng của Đảng. Tình trạng “nhạt Đảng”, “nhạt chính trị”, “nhạt chủ nghĩa” diễn biến phức tạp. Có đảng viên không dám nói ra nhưng cũng không ít đảng viên công khai phát tán quan điểm sai trái trên internet, trên sách, báo, thậm chí có đảng viên kiến nghị phải sửa đổi Cương lĩnh, phải đưa chủ nghĩa Mác - Lênin ra khỏi nền tảng tư tưởng của Đảng, phải loại bỏ chủ nghĩa xã hội ra khỏi mục tiêu, lý tưởng của Đảng. Đúng như Văn kiện Đại hội XII của Đảng nhận định: “Không ít cán bộ, đảng viên có những biểu hiện dao động, mất phương hướng, hoài nghi về vai trò lãnh đạo của Đảng, về mục tiêu, lý tưởng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”(5). Đây là những quan điểm sai trái rất nguy hiểm, nếu không phê phán, ngăn chặn, đẩy lùi sẽ làm tổn hại Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa. Bài học về sự sụp đổ của Đảng Cộng sản Liên Xô và chế độ Xôviết đã cho thấy khi hệ tư tưởng của Đảng đã bị rệu rã thì đảng cộng sản và chế độ xã hội chủ nghĩa cũng không tránh khỏi suy sụp.

Vì vậy phải tích cực đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ mục tiêu, lý tưởng của Đảng. Muốn vậy, một mặt, phải làm tốt công tác lãnh đạo, quản lý, nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ Tổ quốc; mặt khác, phải tiếp tục đổi mới tư duy, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về chủ nghĩa xã hội, về đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Cần tiếp tục nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin một cách có hệ thống, bài bản, sâu sắc, để qua đó làm sáng tỏ những luận điểm cơ bản nào của chủ nghĩa Mác - Lênin trước kia đúng, bây giờ vẫn đúng và lâu dài về sau vẫn đúng; làm rõ những luận điểm nào của Mác, Ăngghen, Lênin đúng nhưng đã bị nhận thức sai và làm sai; những luận điểm nào của các ông không còn phù hợp nữa do bị thực tiễn, lịch sử vượt qua;... và điều quan trọng hơn là cần phải bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin phù hợp với điều kiện lịch sử mới. Nghĩa là phải kiên định và sáng tạo trong nhận thức, vận dụng, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin. Đồng thời phải đổi mới và nâng cao chất lượng trong việc học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, học tập lý luận chính trị, xiết chặt kỷ luật, kỷ cương trong dạy và học lý luận trong các trường chính trị, các học viện, trường đại học, cao đẳng.

Chỉ có như vậy chúng ta mới tạo ra được sự thống nhất về tư tưởng chính trị trong Đảng, mới có đầy đủ cơ sở khoa học để đấu tranh chống suy thoái tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch để bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.

Với quyết tâm chính trị cao của Đảng và toàn bộ hệ thống chính trị, sự tham gia tích cực của đông đảo nhân dân, chúng ta hy vọng việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII sẽ đạt được mục tiêu đề ra. Qua đó giữ ổn định và phát triển bền vững chế độ chính trị ở nước ta, thực hiện thành công mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.

-----------------------------------------

(1) Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”.

(2), (4), (5) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.198, 184, 195.

(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.7, tr.575.

GS. TS. Lê Hữu Nghĩa

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Theo Tạp chí Cộng sản

Bình luận