Quan điểm về cải cách tư pháp trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam

Ngày đăng: 06/06/2017 - 10:06

Cải cách tư pháp đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách. Trong thời gian qua, hoạt động cải cách tư pháp đã đạt được nhiều thành tựu. Nhiều chủ trương, đường lối của Đảng về cải cách tư pháp được thể chế trong Hiến pháp, pháp luật và được triển khai đạt kết quả. Tổ chức bộ máy tòa án, viện kiểm sát, cơ quan bổ trợ tư pháp tiếp tục được kiện toàn; chất lượng hoạt động có tiến bộ. Mặc dù vậy, cải cách tư pháp vẫn chưa thực sự đáp ứng yêu cầu của đổi mới, góp phần thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Chính vì vậy, một lần nữa Đại hội Đảng lần thứ XII khẳng định mục tiêu chiến lược là xây dựng nền tư pháp “trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”(1).

1.6.2017 Lan ảnh Quan điểm về cải cách tư pháp trong Văn kiện Đại hội XII

1. Quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp

Kể từ khi Nhà nước ra đời đến nay, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm củng cố, kiện toàn các cơ quan tư pháp. Vấn đề này ngày càng được chú trọng đồng thời với việc đổi mới tư duy lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ đổi mới.

Kế thừa quan điểm của các kỳ Đại hội trước, Đại hội XII đã nhấn mạnh tầm quan trọng của Chiến lược cải cách tư pháp, chỉ ra những hạn chế, tồn tại của việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp những năm qua, đồng thời xác định các biện pháp mang tính định hướng hoạt động giai đoạn tiếp theo. Văn kiện Đại hội XI nhấn mạnh: Cải cách tư pháp còn chậm, chưa đồng bộ, đặt trong yếu kém chung của 10 năm qua là việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế và quản lý nhà nước, năng lực xây dựng thể chế, quản lý, điều hành, tổ chức thực thi pháp luật còn yếu(2). Tại Đại hội XII, Đảng ta chỉ ra hai hạn chế rõ nét nhất của công cuộc cải cách tư pháp là: “Việc triển khai một số nhiệm vụ cải cách tư pháp còn chậm; vẫn còn tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực, oan, sai, bỏ lọt tội phạm”(3). Hạn chế, bất cập này cho thấy cải cách tư pháp vẫn đang cần phải có những bước tiến mới cả về chất lượng và thời gian, nhất là 5 năm cuối của Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

Đại hội XII đã chỉ ra nguyên nhân của hạn chế đó là “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là vấn đề mới đối với nước ta. Sự phân định giữa vai trò lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước còn những nội dung chưa rõ; phương thức và cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước ở các cấp còn nhiều điểm chưa được chế định rõ và phù hợp với nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền. Tổ chức thực hiện pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa chưa nghiêm”(4). Do đó, Đại hội XII đã đề ra những biện pháp mạnh mẽ nhằm bảo đảm về cơ sở chính trị cho hoạt động cải cách tư pháp. Cụ thể:

Về mục đích và lộ trình thực hiện, “Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp, xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, từng bước hiện đại; bảo vệ pháp luật, công lý, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân. Phân định rành mạch thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp trong tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp”(5).

Đối với Tòa án:“Cụ thể hóa đầy đủ các nguyên tắc hiến định về chức năng, nhiệm vụ của Tòa án nhân dân và hoạt động xét xử. Tổ chức tòa án theo thẩm quyền xét xử; bảo đảm nguyên tắc độc lập, nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, của đương sự”(6). Đại hội XII nhấn mạnh 5 nhiệm vụ cải cách tư pháp cơ bản đối với tòa án, trong đó nhấn mạnh vai trò của hoạt động xây dựng pháp luật, bảo đảm Tòa án thực sự là cơ quan xét xử và thực hiện quyền tư pháp mà Hiến pháp đã quy định. Đồng thời, tòa án phải được tổ chức phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và bảo đảm ba nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động là độc lập trong xét xử, tranh tụng trong xét xử và bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, của đương sự. Đại hội XII cũng nhấn mạnh nguyên tắc xét xử theo thẩm quyền của tòa án mà không phụ thuộc vào đơn vị hành chính lãnh thổ. Quan điểm này phù hợp với xu thế cải cách khách quan của Việt Nam và thế giới đối với hệ thống tòa án.

Đối với Viện kiểm sát nhân dân, khẳng định vị trí pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước với vai trò kép: vừa là cơ quan thực hành quyền công tố vừa là cơ quan giữ quyền kiểm sát hoạt động tư pháp. “Viện Kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp; được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của Tòa án; tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra”(7). Do đó, tổ chức viện kiểm sát cần tiếp tục kiện toàn nhằm phù hợp với hệ thống tổ chức của toà án để thực hiện tốt hơn chức năng công tố và kiểm sát tư pháp đã được Hiến pháp ghi nhận. Bên cạnh đó, cần tăng cường trách nhiệm công tố trong giai đoạn điều tra như kiểm sát tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Cơ quan điều tra; đòi hỏi các cán bộ, kiểm sát viên phải tích cực, chủ động phát huy đầy đủ vai trò, trách nhiệm khi tham gia vào hoạt động thực hành quyền công tố. Trong từng vụ án, các kiểm sát viên luôn kịp thời và chủ động đề ra các yêu cầu điều tra giúp các Điều tra viên định hướng điều tra từng vụ án, đảm bảo chất lượng và hiệu quả cao trong hoạt động điều tra và kiểm sát điều tra. Bên cạnh đó, tăng cường trách nhiệm và nâng cao ý thức của từng cán bộ, kiểm sát viên trong việc kiểm sát điều tra, kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án để phát hiện kịp thời các trường hợp cơ quan điều tra bỏ lọt tội phạm, những tài liệu, chứng cứ vụ án, khắc phục tình trạng các chứng cứ do cơ quan điều tra thu thập trong giai đoạn điều tra chưa đảm bảo tính khách quan, bảo đảm không bỏ lọt người phạm tội, không làm oan người vô tội.

Đối với cơ quan điều tra, Đại hội XII nhấn mạnh nhiệm vụ “Kiện toàn tổ chức cơ quan điều tra, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của cơ quan điều tra”(8). Đây là quan điểm mang tính khoa học trong tổ chức nhà nước nói chung và tổ chức hệ thống cơ quan điều tra nói riêng. Theo đó, hệ thống cơ quan điều tra cần được tổ chức theo phân công, phân cấp, phân quyền, thẩm quyền điều tra. Trước hết là thẩm quyền theo địa giới hành chính: tội phạm xảy ra ở đâu, cơ quan điều tra ở đó; thứ hai là theo lĩnh vực hoạt động; thứ ba là theo tội danh; thứ tư là theo đối tượng phạm tội. Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hiện tổng hợp thẩm quyền trên các lĩnh vực, còn cơ quan điều tra của Công an nhân dân phân cấp rõ hơn. Tuy nhiên, sự phân công, phân cấp có những thời điểm chỉ mang tính tương đối.

Đối với hoạt động của luật sư và bổ trợ tư pháp, Đại hội XII nhấn mạnh hai yếu tố cơ bản là chất lượng và hiệu quả, đòi hỏi tiếp tục “Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của luật sư, bổ trợ tư pháp”(9) và “Tiếp tục xã hội hóa một số hoạt động tư pháp và bổ trợ tư pháp có đủ điều kiện”(10).

Như vậy, cải cách tư pháp trong thời gian tới cần phải thực chất hơn và quyết liệt hơn, phải thể hiện được mục đích của Chiến lược cải cách tư pháp là xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam XHCN;hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao.Có như vậy mới thể hiện được vai trò của các cơ quan tư pháp trong Nhà nước pháp quyền.

2. Giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động tư pháp, cải cách tư pháp

Để quán triệt quan điểm của Đại hội XII về cải cách tư pháp, giai đoạn tới cần tập trung vào các giải pháp sau:

Một là, chú trọng công tác tuyên truyền, phổ biến nội dung, mục đích của Chiến lược cải cách tư pháp cũng như các quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về đẩy mạnh Chiến lược cải cách tư pháp. Nâng cao nhận thức đến từng cán bộ, đảng viên, các cấp từ trung ương đến địa phương, đặc biệt là cán bộ trong các cơ quan tư pháp.

Hai là, nghiên cứu, làm rõ mô hình và cách thức hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động tư pháp, cơ quan tư pháp gắn với việc lãnh đạo thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Bảo đảm rằng “Đảng lãnh đạo chặt chẽ đối với các cơ quan tư pháp về chính trị, tổ chức và cán bộ; khắc phục tình trạng cấp ủy đảng buông lỏng lãnh đạo hoặc can thiệp không đúng vào hoạt động tư pháp”. Như vậy, cần quán triệt nguyên tắc “Đảng tập trung lãnh đạo về đường lối, chủ trương, xây dựng tiêu chí, tiêu chuẩn, cơ chế, chính sách về thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên và các cán bộ, công chức trong cơ quan tư pháp.

Ba là, chú trọng việc ban hành và thực hiện các chương trình, kế hoạch, phân công trách nhiệm triển khai thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng về hoạt động tư pháp, cải cách tư pháp tại cơ quan từ trung ương đến địa phương. Xác định rõ nhiệm vụ trọng tâm cải cách tư pháp trên cơ sở Văn kiện của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền, cải cách tư pháp và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.

Bốn là, tăng cường công tác xây dựng Đảng trong cơ quan tư pháp và tổ chức luật sư, bổ trợ tư pháp, thi hành án. Tăng cường hoạt động xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, có trình độ, năng lực chuyên môn phù hợp, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn mới. Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp cần gắn với yêu cầu chung của đội ngũ cán bộ, công chức được nêu trong Văn kiện Đại hội XII như “Rà soát, sửa đổi, bổ sung chính sách đối với cán bộ, công chức theo hướng khuyến khích cán bộ, công chức nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức công vụ, hoàn thành tốt nhiệm vụ; lấy bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực, hiệu quả thực thi nhiệm vụ để đánh giá, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ. Xây dựng cơ chế, chính sách đãi ngộ, thu hút, trọng dụng nhân tài”. Đồng thời, chú trọng tới yêu cầu của cán bộ tư pháp để đưa ra những biện pháp lãnh đạo phù hợp. Chú trọng việc nghiên cứu xây dựng mô hình tổ chức đảng, phát triển đảng viên trong các cơ quan tư pháp và bổ trợ tư pháp; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức hành nghề luật sư, các tổ chức bổ trợ tư pháp được xã hội hóa.

Năm là, tiếp tục rà soát những quy định pháp luật để khắc phục tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn trong việc quy định vị trí pháp lý, chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan tư pháp, chức danh tư pháp. Đảm bảo cho pháp luật là cơ sở để các chức danh tư pháp thực hiện thẩm quyền của mình cũng như xác định trách nhiệm bồi thường Nhà nước khi có thiệt hại xảy ra.

Sáu là, chú trọng các biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động bổ trợ tư pháp theo hướng mở rộng phạm vi xã hội hóa, tạo cơ chế thu hút những người có đủ điều kiện tham gia hành nghề, đề cao trách nhiệm, đạo đức trong hoạt động nghề, tăng cường vai trò tự quản của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp và hiệu quả quản lý nhà nước đối với các hoạt động nghề nghiệp.

Bảy là, nghiên cứu kinh nghiệm nước ngoài về cải cách tư pháp để áp dụng linh hoạt, sáng tạo vào thực tiễn cải cách tư pháp ở Việt Nam. Tuy nhiên, cần tránh tình trạng nghiên cứu phân tán, không tập trung và áp dụng một cách máy móc, rập khuôn, không phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Tám là, tăng cường hoạt động kiểm tra của Đảng, gắn với nâng cao năng lực giám sát và tạo môi trường công khai, minh bạch để người dân, luật sư, công đoàn v.v. trực tiếp giám sát hoạt động của cơ quan tư pháp. Đồng thời, chú trọng tới giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân đối với cơ quan tư pháp từ trung ương đến địa phương; nâng cao chất lượng, hiệu quả kiểm sát hoạt động tư pháp của viện kiểm sát.

Chín là, tập trung nguồn lực vật chất, kinh phí, áp dụng công nghệ thông tin trong công tác đảng để nhanh chóng nắm bắt các thông tin về hoạt động tư pháp và cải cách tư pháp, từ đó có các biện pháp lãnh đạo kịp thời, chính xác. Tuy nhiên, nguồn lực vật chất cần phải được sử dụng theo tiêu chí tiết kiệm, hiệu quả, công khai, minh bạch, góp phần thúc đẩy và bảo đảm hoạt động của cơ quan tư pháp, đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp.

____________________

(1), (3), (4), (5), (6), (7), (8), (9), (10): Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 109, 110, 110, 114, 114, 115, 115, 115, 114.

(2) Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.171-172.

PGS, TS Trương Thị Hồng Hà

Văn phòng Ban chỉ đạo Cải cách tư pháp

ThS Trần Thị Bình

Học viện Báo chí và Tuyên truyền

Theo Tạp chí Lý luận chính trị

Bình luận