Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đổi mới

Ngày đăng: 17/07/2017 - 09:07

Đại hội XII của Đảng một lần nữa nhấn mạnh cần chú trọng công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng nhằm đáp ứng những yêu cầu của thời kỳ mới. Văn kiện Đại hội chỉ rõ, Đảng ta cần “Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới. Nâng cao bản lĩnh chính trị, trí tuệ, tính chiến đấu của toàn Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp; không dao động trong bất cứ tình huống nào. Giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng, vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên”[1].

Trong công tác xây dựng Đảng, Đảng ta luôn khẳng định công tác chính trị, tư tưởng là một bộ phận trực tiếp xây dựng, củng cố và phát triển Đảng về mặt chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống và văn hóa. Vai trò ấy càng trở nên đặc biệt quan trọng trong những thời điểm có tính bước ngoặt của lịch sử. Vào những thời điểm như vậy cần phải nỗ lực tập trung trí tuệ và lực lượng xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, bảo đảm cho Đảng có đường lối chính trị đúng đắn, sáng tạo, kiên định mục tiêu, lý tưởng, nền tảng tư tưởng và những nguyên tắc cơ bản trong hoạt động của Đảng.

Hiện nay, đất nước ta đang đứng trước những cơ hội mới do những thành tựu của công cuộc đổi mới mang lại trên tất cả các lĩnh vực. Đồng thời cũng đối mặt với những khó khăn, thách thức mới mà lịch sử đặt ra. Thời kỳ phát triển mới của đất nước đặt ra mục tiêu cao hơn, nhiệm vụ nặng nề hơn cho công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng. Từ nay đến năm 2020, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta phải tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế nhanh, bền vững, xây dựng nền tảng để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Mục tiêu cao cả đó đòi hỏi công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng phải có sự bứt phá mạnh mẽ, nâng cao tầm nhìn, đổi mới sâu sắc nội dung, phương thức, thực hiện tốt nhất chức năng đi trước, mở đường cho sự phát triển của đất nước.

Quá trình hội nhập quốc tế và khu vực ngày càng sâu rộng đang đặt công tác tư tưởng, lý luận trước những thách thức gay gắt hơn, phức tạp hơn so với bất kỳ giai đoạn cách mạng nào trước đây. Trong tình hình đó, lĩnh vực chính trị, tư tưởng phải tiếp cận, tương tác, đối diện trực tiếp với các trào lưu, khuynh hướng tư tưởng từ bên ngoài đang tác động nhanh chóng và mạnh mẽ đến tư tưởng, tình cảm, đạo đức, lối sống, tâm lý của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Đó là các trào lưu tư tưởng tư sản phương Tây, tư tưởng tự do kiểu Mỹ, tư tưởng xã hội dân chủ, là sự hụt hẫng, sự mất định hướng về giá trị xã hội, về đạo đức, lối sống, là chủ nghĩa cá nhân cực đoan, là lối sống lai căng, mất gốc... Trong điều kiện như vậy, các thế lực thù địch lại ngày càng điên cuồng chống phá quyết liệt hơn, tinh vi hơn, chúng coi lĩnh vực tư tưởng, lý luận là khâu đột phá để tấn công vào sự lãnh đạo và vào nền tảng tư tưởng của Đảng và của cách mạng nước ta.

Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ cũng đặt ra những yêu cầu mới cho công tác chính trị, tư tưởng. Trên thế giới sẽ xuất hiện nhiều vấn đề mới về lý luận đòi hỏi công tác tư tưởng, lý luận và cán bộ tư tưởng, lý luận phải phân tích, đánh giá đúng, xử lý, định hướng kịp thời và có sức thuyết phục. Khi các phương thức thông tin trở nên đa dạng, nhiều chiều được cung cấp bởi các phương tiện hiện đại đang phát triển ngày càng phổ biến, phổ cập thì quản lý thông tin, nhất là thông tin báo chí, thông tin trên các trang mạng xã hội sẽ không thể tiến hành theo phương thức cũ.

Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, một mặt sẽ làm cho mức sống của xã hội nâng cao, nhưng mặt khác cũng sẽ xuất hiện sự phân hóa giàu nghèo, sự khác biệt về thu nhập, mức sống. Các nhóm lợi ích sẽ phát triển đa dạng, phức tạp, tạo ra tiền đề cho việc hình thành các khuynh hướng tư tưởng khác nhau, tác động trực tiếp vào khối đại đoàn kết toàn dân tộc và sự đồng thuận xã hội.

Trong tình hình đó, để tăng cường xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, cần thực hiện các nhóm giải pháp:

1. Nâng cao chất lượng hoạch định đường lối, chính sách

Đảng lãnh đạo bằng chủ trương, đường lối thể hiện trong Cương lĩnh, trong nghị quyết của Đảng. Đường lối đúng đắn là nhân tố quan trọng đầu tiên quyết định thắng lợi nhiệm vụ cách mạng, củng cố uy tín, nâng cao vai trò và năng lực lãnh đạo của Đảng. Năng lực hoạch định đường lối, xây dựng nghị quyết là tiêu chí cơ bản đầu tiên đánh giá năng lực lãnh đạo của Đảng. Hiện nay, để bảo đảm cho đường lối, nghị quyết được hoạch định đúng đắn, khoa học, sáng tạo, có tính khả thi, quá trình xây dựng đường lối, nghị quyết của Đảng phải đáp ứng các yêu cầu sau:

Một là, phải kiên định và vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; trong đó đặc biệt chú trọng vận dụng phép biện chứng giữa cái chung và cái riêng, giữa cái toàn bộ và bộ phận và quan điểm lịch sử - cụ thể, lấy đó làm cơ sở lý luận và phương pháp luận nền tảng để phân tích tình hình thế giới và trong nước, phát hiện ra những tình huống có vấn đề cần giải quyết, đưa ra được các quyết định chính trị đúng để giải quyết vấn đề đó, thúc đẩy thực tiễn phát triển.

Đặt vấn đề kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc hoạch định đường lối của Đảng không phải là giáo điều, sách vở trong điều kiện hiện nay. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tạo cơ hội để các trào lưu tư tưởng tư sản xâm nhập vào nước ta, do đó cán bộ, đảng viên và những người tham gia vào quá trình hoạch định đường lối sẽ đứng dưới áp lực của các thông tin dồn dập đến từ các quốc gia phương Tây. Nếu Đảng ta, cán bộ, đảng viên không kiên định nền tảng tư tưởng, mục tiêu lý tưởng, không có bản lĩnh chính trị vững vàng, không có tư duy chính trị mácxít sắc bén sẽ dẫn đến mất tự chủ, dễ sai lầm, ngộ nhận, chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy, để có đường lối đúng, một mặt phải kiên định lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; mặt khác, Đảng ta phải đấu tranh phòng ngừa, khắc phục mọi biểu hiện của chủ nghĩa giáo điều, cơ hội và xét lại trong quá trình xây dựng đường lối, phải cảnh báo về nguy cơ giáo điều, xét lại có thể ảnh hưởng đến đường lối chính trị của Đảng.

Hai là, phải trên cơ sở của thực tiễn đang vận động, biến đổi. Những vấn đề thực tiễn mà đường lối, nghị quyết của Đảng lấy làm điểm xuất phát và hướng sự tác động tới làm biến đổi nó thường không ngừng vận động, phát triển. Một nghị quyết, một đường lối được xem là đúng đắn, khoa học khi nó không chỉ phản ánh đúng đắn, khách quan trạng thái hiện có của vấn đề mà còn bao quát triển vọng phát triển, biến đổi của nó. Nếu hoạch định đường lối, xây dựng nghị quyết không tính đến sự vận động, phát triển của vấn đề thì có thể đường lối, nghị quyết chỉ đúng trong hiện tại hay trước mắt, nhưng lại có thể không đúng hay để lại hậu quả xấu trong tương lai. Cho nên, quá trình chuẩn bị hoạch định đường lối, xây dựng nghị quyết phải có đầy đủ thông tin để dự báo chính xác tình hình, phải có tầm nhìn để phạm vi bao quát của đường lối, nghị quyết xa hơn, rộng hơn. Tương tự, quá trình tổ chức thực hiện đường lối, nghị quyết của Đảng, nhất định sẽ nảy sinh những vấn đề mới, những thuận lợi, khó khăn mới mà chúng ta phải kịp thời phát hiện và chủ động giải quyết. Xuất phát từ thực tiễn đang vận động, biến đổi trong xây dựng đường lối, nghị quyết của Đảng sẽ tránh được chủ quan, duy ý chí, giáo điều, sách vở trong đường lối, chính sách.

Ba là, phải kế thừa một cách sáng tạo kinh nghiệm lịch sử của dân tộc và nhân loại, kinh nghiệm các Đảng cộng sản đã tích lũy. Một đường lối chính trị, một nghị quyết của Đảng chỉ đúng đắn khi nó được xây dựng, hoạch định trên cơ sở khoa học mà một trong những cơ sở khoa học đó chính là kinh nghiệm của lịch sử, bao gồm lịch sử đất nước, lịch sử Đảng và lịch sử nhân loại. Việc kế thừa biện chứng, sáng tạo những kinh nghiệm đó giúp chúng ta đỡ mò mẫm những con đường mới mà chúng ta sắp đi tới nhưng loài người đã trải qua, giúp chúng ta tránh được những vấp váp, sai lầm trong quá khứ mà nhân loại hoặc các thế hệ trước đã mắc phải.

Bốn là, nghiên cứu kỹ lưỡng nhu cầu, lợi ích, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân và coi đó là một trong những căn cứ để hoạch định đường lối, xây dựng nghị quyết. Tính khả thi của đường lối, chính sách, nghị quyết được quyết định bởi sự đồng tình ủng hộ, niềm tin của người dân khi tiếp nhận đường lối, chính sách, nghị quyết. Sự đồng tình ủng hộ, tính tích cực, tự giác của nhân dân hoàn toàn phụ thuộc vào đường lối, chính sách, nghị quyết có phản ánh khách quan, trung thực nhu cầu, nguyện vọng, mang lại lợi ích cho họ hay không. Cho nên, một đường lối, một quyết sách của Đảng mang tính khoa học và tính thực tiễn, tính khả thi khi nó bắt nguồn từ thực tiễn cuộc sống, phản ánh đúng quy luật khách quan, đáp ứng nhu cầu, lợi ích chính đáng lâu dài và trước mắt của các tầng lớp nhân dân ở tầm tiên tiến của nó.

Sự phát triển của nền kinh tế thị trường sẽ dẫn đến một cơ cấu xã hội đa dạng, phức tạp, chứa đầy mâu thuẫn về lợi ích. Trong điều kiện đó, đường lối, nghị quyết của Đảng phải trở thành công cụ kết hợp và giải quyết hài hòa các quan hệ lợi ích chính đáng của mọi tầng lớp nhân dân. Có như vậy, Đảng mới trở thành người đại biểu cho lợi ích của giai cấp, của dân tộc, của mọi tầng lớp nhân dân và sẽ động viên, cổ vũ được sức mạnh, sự sáng tạo của mọi giai tầng xã hội thực hiện có hiệu quả đường lối, nghị quyết.

Năm là, phát huy dân chủ, tập trung trí tuệ và ý chí của toàn Đảng, toàn dân tham gia xây dựng và tổ chức thực hiện đường lối, nghị quyết. Hiện nay, trình độ học vấn, trình độ lý luận chính trị không chỉ của đảng viên, cán bộ ngày càng cao mà trình độ dân trí cũng ngày càng cao. Với những hiểu biết và trách nhiệm công dân của mình, nhân dân hoàn toàn có quyền và có khả năng tham gia xây dựng đường lối, chính sách. Để đường lối, nghị quyết của Đảng là kết tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân phải có cơ chế thu hút ngày càng rộng rãi các tầng lớp nhân dân tham gia thảo luận xây dựng các quyết sách, nhất là các quyết sách lớn của Đảng và Nhà nước. Các quyết sách của Đảng, Nhà nước phải được lấy ý kiến rộng rãi của các tầng lớp nhân dân từ cơ sở và cần nhận được phản biện của các tầng lớp nhân dân thông qua các tổ chức đại diện cho mình, cả trong quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện quyết sách. Chính vì vậy, cần thiết phải có luật trưng cầu dân ý và thực hiện việc trưng cầu dân ý đối với những vấn đề hệ trọng liên quan đến nhu cầu, lợi ích cơ bản của nhân dân.

Sáu là, đề phòng, khắc phục nguy cơ “lợi ích nhóm” chi phối quá trình hoạch định đường lối, chính sách. “Lợi ích nhóm” là thuật ngữ dùng để chỉ một hay một số quyền lợi, giá trị vật chất, tinh thần hoặc địa vị, bổng lộc... thuộc về một số người nào đó có cùng mối quan tâm, cùng mục tiêu và cùng hành động với nhau trong những môi trường, điều kiện nhất định. “Lợi ích nhóm” có tác động, ảnh hưởng rất lớn đến quá trình xây dựng và chi phối nội dung, khuynh hướng của quyết sách. Bởi vì, để đạt được “lợi ích nhóm”, nhóm lợi ích thường tác động bằng chính lợi ích và bằng vận động hành lang. Ở nước ta, nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu, chuyên gia, cán bộ có chung nhận định rằng lúc này, lúc khác, ở nơi này, nơi kia có biểu hiện của “lợi ích nhóm” trong việc xây dựng, ban hành cơ chế, chính sách, pháp luật.

Rõ ràng, để nâng cao chất lượng quá trình hoạch định đường lối, chính sách, xây dựng các nghị quyết cần phải khắc phục triệt để những ảnh hưởng và sự chi phối của “lợi ích nhóm” bằng các chế tài và nâng cao trách nhiệm đạo đức của những người tham gia xây dựng và thông qua đường lối, nghị quyết, chính sách, pháp luật.

Bảy là, sử dụng đội ngũ chuyên gia tư vấn cao cấp. Chuyên gia tư vấn cao cấp là những cán bộ có trình độ cao, chuyên sâu, có năng lực tư duy chiến lược, có nhiều kinh nghiệm và giàu ý tưởng sáng tạo trong việc tham mưu, giúp việc cho các cơ quan lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà nước. Họ là những người đóng vai trò then chốt trong quá trình nghiên cứu, xây dựng chính sách, phát hiện ra các nguy cơ và đề xuất chính sách đối phó. Lực lượng chuyên gia tư vấn cao cấp còn có khả năng tham gia phản biện, phân tích chính sách góp phần hạn chế, ngăn chặn những sai lầm trong quyết sách của những người lãnh đạo.

Nhằm phát huy vai trò của đội ngũ chuyên gia tư vấn, Thủ tướng Chính phủ đã ký văn bản thành lập Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia để tham mưu cho Thủ tướng trong việc hoạch định và quyết định những vấn đề quan trọng về tài chính, tiền tệ.

Để nâng cao chất lượng quá trình hoạch định đường lối, xây dựng nghị quyết, cùng với việc thành lập, duy trì và nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng Lý luận Trung ương, Đảng ta cần xây dựng, kiện toàn và sử dụng có hiệu quả đội ngũ chuyên gia tư vấn cao cấp của Đảng. Họ được coi là những người hoạt động chuyên nghiệp, chuyên sâu, tham mưu cho Đảng trong việc nghiên cứu lựa chọn nội dung vấn đề cần ban hành nghị quyết, tham gia quá trình hoạch định, phân tích, phản biện đường lối, chính sách, nghị quyết, bảo đảm cho đường lối, chính sách, nghị quyết của Đảng luôn phù hợp với thực tiễn cuộc sống, với quy luật khách quan, với nhu cầu, lợi ích, nguyện vọng của mọi tầng lớp nhân dân.

2. Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng

Một là, nghiên cứu, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những giá trị văn hóa truyền thống, những bài học kinh nghiệm trong xây dựng và bảo vệ đất nước trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Tiếp tục khẳng định và cụ thể hóa những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, những giá trị bền vững phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Nghiên cứu có hệ thống và sâu sắc về tư tưởng Hồ Chí Minh, làm rõ những vấn đề mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin.

Nghiên cứu sâu sắc về bản chất, đặc điểm của chủ nghĩa tư bản hiện đại, về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và những vấn đề làm cơ sở lý luận cho việc hoạch định đường lối, chính sách.

Hai là, đổi mới và nâng cao chất lượng công tác giáo dục lý luận chính trị; khắc phục sự lạc hậu của chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học. Tăng cường đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ nghiên cứu và giảng dạy lý luận chính trị. Đổi mới chế độ, chính sách đối với đội ngũ cán bộ đặc thù này. Thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa trong nghiên cứu và sinh hoạt lý luận chính trị, thực hiện tự do tư tưởng trong công tác tư tưởng.

Ba là, đổi mới, nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, giáo dục quan điểm, đường lối của Đảng. Kiên trì đấu tranh bảo vệ lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; thường xuyên gắn kết chặt chẽ công tác tư tưởng với công tác tổ chức và công tác kinh tế. Tăng cường tuyên truyền, cổ vũ các nhân tố mới, các điển hình tiên tiến, những gương người tốt, những việc tử tế, tạo lập phong trào hành động cách mạng rộng rãi thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới.

Bốn là, đề cao trách nhiệm của toàn Đảng và hệ thống chính trị đối với công tác tư tưởng, thực hiện quy chế, quy định toàn Đảng làm công tác tưởng, trong đó bí thư cấp ủy là “tư lệnh” của mặt trận tư tưởng. Chủ động nắm bắt tình hình diễn biến tư tưởng và xử lý đúng đắn, kịp thời. Tăng cường đối thoại và xây dựng cơ chế phối hợp công tác tư tưởng trong Đảng với công tác tư tưởng trên quy mô toàn xã hội.

Năm là, triển khai sâu rộng nhiệm vụ xây dựng đạo đức mới trong các tầng lớp nhân dân và xây dựng đạo đức cách mạng, đạo đức công vụ cho cán bộ, đảng viên. Tổ chức thực hiện rộng khắp, liên tục, có chiều sâu, thiết thực, hiệu quả việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, gắn với nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng và cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, phòng ngừa “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta; đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”, chống lai căng, mất gốc, bắt chước, lệ thuộc nước ngoài.

Sáu là, xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ tư tưởng, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, hiện đại hóa và đồng bộ hóa các phương tiện công tác tư tưởng. Khẩn trương xây dựng quy hoạch đội ngũ cán bộ tư tưởng các cấp. Coi trọng quy hoạch cán bộ tư tưởng cấp chiến lược, các chuyên gia đầu ngành, cán bộ kế cận và các cán bộ trẻ. Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng và xây dựng các chế độ, chính sách đãi ngộ thỏa đáng cho đội ngũ cán bộ tư tưởng. Xây dựng chiến lược công tác tư tưởng trong tình hình mới.

Bảy là, đẩy mạnh việc xây dựng hệ thống luận cứ và phương pháp phê phán các quan điểm sai trái, thù địch với đường lối, quan điểm của Đảng.

Xây dựng hệ thống luận cứ phê phán các quan điểm sai trái, thù địch với đường lối, quan điểm của Đảng để cung cấp cho các ban, bộ, ngành Trung ương, cấp ủy đảng và chính quyền tỉnh, thành phố, các cơ quan báo chí, xuất bản, văn hóa, nghệ thuật, các trường chính trị, học viện, đại học, cao đẳng, cho cán bộ, đảng viên tiến hành đấu tranh, phê phán các quan điểm sai trái, thù địch với quan điểm, đường lối của Đảng; uốn nắn những nhận thức mơ hồ, lệch lạc, góp phần làm thất bại âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, ngăn chặn những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta, củng cố sự thống nhất tư tưởng trong Đảng, đồng thuận trong xã hội.

Chủ thể của các quan điểm sai trái, thù địch thường là các đối tượng có trình độ nhất định, một số có năng lực tư duy khoa học, tư duy lý luận. Do đó, việc phản bác các quan điểm của họ cần dựa trên cơ sở các luận cứ khoa học chặt chẽ, các cách chứng minh, lập luận lôgíc phù hợp với quy luật của tư duy, tránh áp đặt, chủ quan, phê phán theo lối “cả vú lấp miệng em”...

3. Ngăn chặn và đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên

Thuật ngữ “suy thoái về tư tưởng chính trị” được Đảng ta sử dụng chính thức lần đầu trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu (lần 2) Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII. Đây là khái niệm khái quát những hiện tượng, những biểu hiện tiêu cực, không bình thường và tình trạng giảm sút, sút kém dần những phẩm chất chính trị đã và đang diễn ra trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và gần đây là trong cả một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý của Đảng ta.

Thuật ngữ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” được Đảng ta chính thức sử dụng trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (năm 2011). Theo nhiều nhà nghiên cứu, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên hiện nay thực chất là: trong đội ngũ cán bộ, đảng viên đã và đang diễn ra tình trạng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”1. Như vậy, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là hai hiện tượng có quan hệ chặt chẽ với nhau, lồng vào nhau, là tiền đề điều kiện cho nhau. Khắc phục chúng phải được tiến hành đồng bộ, đồng thời. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” đã xác định: “... kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin của đảng viên và nhân dân đối với Đảng”[2].

Để đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” cần thực hiện các giải pháp:

Một là, đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục chính trị, tư tưởng, tạo ra sự thống nhất trong Đảng về nhận thức, ý chí và hành động.

Đảng ta là đảng cầm quyền, sức mạnh của Đảng được thể hiện ở sức mạnh của từng đảng viên của Đảng. Điều đó được biểu hiện ở sự thống nhất cao về nhận thức, ý chí và hành động của mỗi cán bộ, đảng viên trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ chính trị mà Đảng giao cho. Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tình trạng tham nhũng, quan liêu... trở thành nguyên nhân làm suy yếu sức mạnh của Đảng.

Tình hình đó đặt ra yêu cầu phải đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên nhằm tạo ra sự thống nhất trong Đảng về nhận thức, ý chí và hành động. Đây được xem là một trong những giải pháp hữu hiệu để tích cực, chủ động ngặn chặn sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Để thực hiện hiệu quả giải pháp này cần nâng cao chất lượng giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Nâng cao chất lượng giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trước hết phải bảo đảm cho cán bộ, đảng viên nắm được một cách hệ thống và hiểu rõ bản chất khoa học, cách mạng của từng nguyên lý, quy luật, luận điểm và biết vận dụng vào thực tiễn để phân tích những hiện tượng chính trị - xã hội cụ thể. Đồng thời, thông qua nội dung giáo dục, khẳng định sức sống và giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay; khẳng định tính đúng đắn hợp quy luật của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, tin tưởng vào xu thế tất yếu và khả năng hiện thực của chủ nghĩa xã hội. Đây là vấn đề cơ bản, cốt lõi nhất để xây dựng thế giới quan, hình thành niềm tin, lý tưởng cách mạng cho mỗi cán bộ, đảng viên hiện nay.

Nâng cao chất lượng giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh còn được biểu hiện ở nội dung giáo dục không dừng lại ở những nhận thức cảm tính thông thường mà phải chuyển hoá thành tình cảm, niềm tin, ý chí, động cơ và hành động cách mạng của mỗi cán bộ, đảng viên. Từ đó tạo cơ sở để trước những diễn biến phức tạp trong nước và quốc tế cũng như những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống hằng ngày, cán bộ, đảng viên có khả nâng phân tích, lý giải để phân biệt được đúng, sai, tốt, xấu; có bản lĩnh chính trị và lập trường tư tưởng vững vàng, nhãn quan chính trị sắc bén, thái độ chính trị dứt khoát, hành động kịp thời để bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ sự nghiệp đổi mới vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Phương thức giáo dục cũng phải được đổi mới theo hướng: kết hợp giáo dục trong nhà trường với giáo dục trong thực tiễn cách mạng; kết hợp giáo dục trong các tổ chức đảng với giáo dục trong các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội, xã hội; kết hợp giáo dục với tự giáo dục, tự rèn luyện; kết hợp công tác giáo dục với công tác kiểm tra và công tác tổ chức...

Hai là, đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận làm rõ hơn mô hình, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và những vấn đề thực tiễn đặt ra.

Ở nước ta hiện nay, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị của một bộ phận cán bộ, đảng viên còn có nguyên nhân từ sự hạn chế về nhận thức mà trước hết là nhận thức lý luận về mô hình và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Vì sự hạn chế này nên không ít vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra hoặc trước những tư tưởng, quan điểm sai trái, họ không đủ trình độ phân tích, luận giải, đấu tranh dẫn đến hoang mang, dao động, giảm sút niềm tin vào lý tưởng, mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Sự hạn chế về nhận thức của cán bộ, đảng viên là do công tác tư tưởng, lý luận vẫn còn những hạn chế, bất cập, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đang đặt ra. Điều đó đặt công tác lý luận của Đảng trước những yêu cầu mới hết sức bức xúc, đó là phải đẩy mạnh tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận để phát triển lý luận, làm rõ hơn mô hình, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và giải đáp kịp thời những vấn đề thực tiễn đang đặt ra trong quá trình đổi mới ở nước ta.

Tăng cường tổng kết thực tiễn để rút ra những kết luận khoa học nhằm bổ sung, phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên xã hội chủ nghĩa ở nước ta chính là tạo tiền đề, điều kiện cho việc trang bị những tri thức khoa học cần thiết để nâng cao trình độ nhận thức lý luận cho cán bộ, đảng viên. Từ đó có thể ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, tăng cường khả năng “miễn dịch” trước sự tác động của những tư tưởng, quan điểm sai trái của các thế lực thù địch cho đội ngũ cán bộ, đảng viên ở nước ta hiện nay.

Ba là, kết hợp giáo dục chính trị, tư tưởng và giáo dục đạo đức, lối sống với việc quản lý cán bộ, đảng viên ở nơi làm việc và nơi cư trú.

Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị trong một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay không chỉ có nguyên nhân từ sự hạn chế về nhận thức, thiếu ý thức tu dưỡng rèn luyện về đạo đức, lối sống mà còn có nguyên nhân rất quan trọng là sự quản lý thiếu chặt chẽ cán bộ, đảng viên của các tổ chức đảng. Do đó, để khắc phục tình trạng này, một mặt phải tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, giáo dục đạo đức, lối sống; mặt khác, phải đổi mới công tác quản lý cán bộ, đảng viên ngay từ mỗi tổ chức cơ sở đảng. Sự kết hợp có hiệu quả giữa giáo dục chính trị, tư tưởng và giáo dục đạo đức, lối sống với việc quản lý cán bộ, đảng viên bảo đảm sự giám sát chặt chẽ của tổ chức đảng đối với cán bộ, đảng viên ở nơi làm việc và nơi cư trú được xem là một giải pháp hữu hiệu để ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên ở nước ta hiện nay.

Bốn là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kết hợp giáo dục, thuyết phục với xử lý nghiêm những người vi phạm nguyên tắc của Đảng và pháp luật của Nhà nước.

Công tác kiểm tra, giám sát có vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác xây dựng Đảng nói chung và trong đấu tranh khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên nói riêng. Trong những năm qua, công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tăng cường kỷ luật, kỷ cương của Đảng; giữ vững nguyên tắc và sự đoàn kết, thống nhất trong nội bộ Đảng. Song, công tác kiểm tra, giám sát của Đảng trong thời gian qua vẫn còn bị buông lỏng, xem nhẹ, nhiều dấu hiệu vi phạm còn bỏ sót hoặc không được kiểm tra, việc xử lý chưa nghiêm túc. Đây chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên.

Để khắc phục những yếu kém, bất cập và phát huy vai trò của công tác kiểm tra, giám sát trong việc ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên hiện nay, cần tập trung vào các vấn đề sau: một là, nâng cao nhận thức của các cấp uỷ đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội, cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về vai trò của công tác kiểm tra, giám sát; hai là, công tác kiểm tra, giám sát cần tập trung làm rõ những biểu hiện và mức độ của tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên; ba là, cần coi trọng và mở rộng dân chủ, dựa vào dân, phát huy quyền làm chủ, quyền kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với cán bộ, đảng viên; bốn là, phối hợp đồng bộ, chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng để phát huy hơn nữa vai trò của công tác kiểm tra, giám sát đối với việc ngăn chặn tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên hiện nay.

Năm là, coi trọng công tác bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện các chính sách, pháp luật và bảo đảm tính nghiêm minh trong thực hiện chính sách, pháp luật để quản lý, điều hành hiệu quả các mặt đời sống xã hội, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.

Tập trung hoàn thiện chính sách, pháp luật, cơ chế, định chế để giải quyết những vấn đề bức xúc, nổi cộm, nhất là những vấn đề liên quan đến chính trị, kinh tế, an ninh, quốc phòng của đất nước như: quản lý, sử dụng vốn, tài sản công; quản lý, sử dụng đất đai; giải phóng mặt bằng; các vấn đề về bảo đảm an ninh chính trị nội bộ và công tác bảo vệ chính trị nội bộ; quản lý văn hóa, giáo dục, thông tin và truyền thông... Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát trong thực thi chính sách, pháp luật và trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.

Thực hiện tốt giải pháp này sẽ góp phần giải quyết những tồn đọng, bức xúc trong xã hội, tác động tích cực và trực tiếp đến tư tưởng cán bộ, đảng viên và nhân dân, từ đó hạn chế, từng bước xóa bỏ tận gốc điều kiện, cơ sở phát sinh tư tưởng, quan điểm sai trái và những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống cũng như “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

4. Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh

Năm năm thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XI về “Tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đã đạt được kết quả bước đầu, góp phần quan trọng vào việc thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng và Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Tuy nhiên, việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh còn có những hạn chế, chưa trở thành việc làm thường xuyên, chưa thành ý thức tự giác của không ít tổ chức đảng, cơ quan, địa phương, đơn vị và một bộ phận cán bộ, đảng viên.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, phát huy những kết quả đã đạt được, khắc phục những hạn chế trong việc thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XI về “Tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, ngày 15-5-2016, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 05-CT/TW về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; trong đó yêu cầu các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, tổ chức chính trị - xã hội các cấp quán triệt và thực hiện tốt một số nội dung cơ bản sau:

Một là, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động trong Đảng, hệ thống chính trị và nhân dân, đưa việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thành công việc tự giác, thường xuyên của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và tổ chức chính trị - xã hội các cấp, của từng địa phương, cơ quan, đơn vị, trước hết là của người đứng đầu, của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên. Đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là một nội dung quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đủ năng lực, phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu.

Tiếp tục làm cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhận thức ngày càng sâu sắc hơn những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; làm cho tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của đời sống xã hội, xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Hai là, tổ chức học tập, quán triệt và tuyên truyền sâu rộng, thường xuyên, liên tục và có hệ thống bằng nhiều hình thức phong phú, sinh động các nội dung chủ yếu về tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Đó là hệ thống quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân dân, về khối đại đoàn kết toàn dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân; về quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về xây dựng, phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; về đạo đức cách mạng; về chăm lo, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng,... Đó là các quan điểm và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về tuyệt đối trung thành, kiên định lý tưởng cách mạng, đặt lợi ích của Đảng, của đất nước, dân tộc lên trên tất cả; hết lòng, hết sức phục vụ Tổ quốc, phụng sự nhân dân, tận trung với nước, tận hiếu với dân; hết lòng yêu thương đồng bào, đồng chí, yêu thương con người; cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư, thật sự là công bộc của nhân dân, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội,... Đó là phong cách Hồ Chí Minh, phản ánh những giá trị cốt lõi trong tư tưởng, đạo đức của Người và được thể hiện vô cùng sinh động, tự nhiên, độc đáo, có sức thu hút, cảm hóa kỳ diệu trong hoạt động, ứng xử hằng ngày, bao gồm: phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, luôn gắn chặt lý luận với thực tiễn; phong cách làm việc dân chủ, khoa học, kỹ lưỡng, cụ thể, tới nơi, tới chốn; phong cách ứng xử văn hóa, tinh tế, đầy tính nhân văn, thấm đậm tinh thần yêu dân, trọng dân, vì dân; phong cách nói đi đôi với làm, đi vào lòng người; nói và viết ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm; phong cách sống thanh cao, trong sạch, giản dị; phong cách quần chúng, dân chủ, tự mình nêu gương,...

Ba là, đưa việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh vào chương trình, kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, nghị quyết của cấp ủy và nội dung sinh hoạt thường xuyên của chi bộ, gắn với các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước, với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị và giải quyết các vấn đề bức xúc, nổi cộm ở từng địa phương, cơ quan, đơn vị; gắn với việc xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam, xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Lấy kết quả học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là một trong những tiêu chuẩn đánh giá, bình xét, phân loại đảng viên, tổ chức đảng hằng năm.

Bốn là, lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ việc triển khai thực hiện theo phương châm trên trước, dưới sau; trong trước, ngoài sau; học đi đôi với làm theo, chú trọng việc làm theo bằng những hành động và việc làm cụ thể. Xây dựng, tổng kết và nhân rộng những điển hình tiên tiến về làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh, kết hợp giữa “xây” với “chống”. Đề cao trách nhiệm nêu gương, tự giác học trước, làm theo trước để nêu gương của người đứng đầu và cán bộ chủ chốt các cấp, của cán bộ, đảng viên trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

Tăng cường công tác kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, gắn với đánh giá, nhận xét cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức hằng năm và cả nhiệm kỳ. Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, đạo đức công vụ ở từng địa phương, cơ quan, đơn vị với phương châm “sát chức năng, nhiệm vụ, ngắn gọn, dễ nhớ, dễ thực hiện và đánh giá việc thực hiện”. Hoàn thiện chính sách, pháp luật liên quan đến đạo đức công vụ...

PGS.TS. Lương Khắc Hiếu*

PGS.TS. Phạm Minh Sơn*

Trích trong cuốn Vận dụng Nghị quyết Đại hội XII của Đảng vào nghiên cứu,

giảng dạy lý luận chính trị và báo chí - truyền thông do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản



*, ** Học viện Báo chí và Tuyên truyền.

[1]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr.46.

1. Xem Vũ Văn Phúc (Chủ biên): Phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2013, tr.72.

[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Sđd, tr.26.

Bình luận