Vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội

Ngày đăng: 27/09/2017 - 10:09

Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Đảng ta đã lãnh đạo cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, trong đó có gần 30 năm đổi mới. Có ý kiến cho rằng, Đảng ta xác định sai lầm mục tiêu là "chủ nghĩa xã hội" nên từ sai lầm là tất yếu đó, càng nỗ lực càng tụt hậu. Từ đó đề nghị từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, từ bỏ mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội, v.v.. Trong bài viết này, chúng tôi tập trung đề cập đến việc Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới, đi lên chủ nghĩa xã hội là hợp quy luật, là ý Đảng, lòng dân.

Công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo từ 1986 đến nay đã trải qua gần 30 năm. Đó là một công trình vĩ đại của Đảng và nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Nghiên cứu, làm rõ công trình vĩ đại này có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.

1. Đổi mới là vấn đề có ý nghĩa sống còn

Từ cuối những năm 70, đầu những năm 80 của thế kỷ XX, trên thế giới đã diễn ra những biến đổi to lớn, sâu sắc. Nhiều nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng. Các nước tư bản chủ nghĩa, do điều chỉnh, thích ứng và sử dụng những thành quả của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại nên đã vượt qua được những khó khăn, kinh tế có bước tăng trưởng đáng kể. Để thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, cải tổ, cải cách và đổi mới đã trở thành xu thế khách quan ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa.

Ở Việt Nam, sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, bên cạnh thuận lợi và những thành tựu đã đạt được trong giai đoạn đầu xây dựng đất nước, chúng ta cũng đứng trước nhiều khó khăn, thách thức mới. Tư tưởng chủ quan, say sưa với thắng lợi, nóng vội muốn tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội trong một thời gian ngắn, việc bố trí sai cơ cấu kinh tế, cộng với những khuyết điểm của mô hình kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp bộc lộ ngày càng rõ, làm cho tình hình kinh tế - xã hội rơi vào trì trệ, khủng hoảng. Nước ta lại bị các thế lực thù địch bao vây, cấm vận; chiến tranh biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc nổ ra,... gây nhiều khó khăn to lớn cho sự nghiệp xây dựng đất nước của Đảng và nhân dân ta. Để đưa nước ta thoát khỏi tình trạng đó, vấn đề có ý nghĩa quyết định là phải đổi mới mạnh mẽ, cơ bản cách nghĩ, cách làm. Cuối những năm 70 của thế kỷ XX, ở một số địa phương bước đầu có những tìm tòi, thử nghiệm cách làm ăn mới, đưa ra những lời giải đáp cho những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Qua những thành công bước đầu đạt được trong quá trình tìm tòi, thử nghiệm đó, Đảng và nhân dân ta càng nhận thấy sự cần thiết phải đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy, đổi mới cách làm nhằm xây dựng chủ nghĩa xã hội một cách có hiệu quả hơn.

Đại hội VI (12-1986) của Đảng đánh dấu một bước ngoặt rất cơ bản và có ý nghĩa quyết định trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, với việc đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước - từ đổi mới tư duy đến đổi mới tổ chức, cán bộ, phương thức lãnh đạo và phong cách của Đảng; từ đổi mới kinh tế đến đổi mới chính trị và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Đại hội VI khẳng định: Đối với nước ta, đổi mới là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa sống còn. Đại hội VI đã đem lại luồng sinh khí mới trong xã hội, làm xoay chuyển tình hình, đưa đất nước tiến lên. Đại hội rút ra bốn bài học kinh nghiệm lớn trong toàn bộ hoạt động của mình: 1- Đảng phải quán triệt tư tưởng dân là gốc, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; 2- Đảng phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan; 3- Phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới; 4- Phải xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa.

2. Hệ thống quan điểm lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta được hình thành qua quá trình đổi mới

Qua 30 năm đổi mới, Đảng ta đã hình thành được một hệ thống quan điểm lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta1, làm cơ sở khoa học cho hoạch định đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước để đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, chủ động hội nhập quốc tế, phát triển nhanh, bền vững đất nước, thực hiện thắng lợi mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh", góp phần bổ sung và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Một là, về hệ mục tiêu của đổi mới, của chủ nghĩa xã hội Việt Nam

Hệ mục tiêu của đổi mới được hình thành và phát triển trong thực tiễn đổi mới, được Đảng ta nhận thức, bổ sung, phát triển qua các kỳ đại hội Đảng, từ Đại hội VI (12-1986) đến Đại hội XI (1-2011).

Bước vào đổi mới, tại Đại hội VI, Đảng ta đã xác định đổi mới vì dân giàu, nước mạnh, xã hội văn minh.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991), đã bổ sung một mục tiêu rất quan trọng là "công bằng". Đây vừa là một giá trị xã hội thể hiện bản chất của chủ nghĩa xã hội, từng bước xây dựng, vừa là định hướng chính trị - xã hội rất căn bản khi đi vào kinh tế thị trường. "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh". Nhờ định hướng chỉ đạo của hệ mục tiêu đó, Đảng và nhân dân ta đã nỗ lực giải quyết thành công cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng vào những năm 80 của thế kỷ XX.

Trải qua thực tiễn 15 năm đổi mới (1986-2001), trên cơ sở thực tiễn dân chủ hóa toàn diện các lĩnh vực của đời sống - một tư tưởng lớn được đề ra từ Đại hội VI, tạo động lực giải phóng lực lượng sản xuất và mọi tiềm năng xã hội để phát triển, Đại hội IX của Đảng (4-2001) đã nhấn mạnh và bổ sung vào hệ mục tiêu một mục tiêu quan trọng khác là dân chủ thành "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".

Hệ mục tiêu đó không chỉ có tác dụng định hướng chỉ đạo công cuộc đổi mới nói chung, đặc biệt là đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị mà còn đóng vai trò động lực thúc đẩy đổi mới các lĩnh vực khác, xây dựng và phát triển văn hóa và con người, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, xây dựng cơ cấu xã hội mới phù hợp và tương thích với biến đổi cơ cấu kinh tế khi phát triển mạnh mẽ kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa và hội nhập quốc tế,...

Đến Đại hội XI (1-2011), Đảng ta đã phát triển nhận thức về mối quan hệ giữa các mục tiêu, vị trí, vai trò của các mục tiêu với tư cách là những thuộc tính giá trị của phát triển, của đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đại hội xác định mục tiêu: "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Nhận thức lý luận của Đảng ta tại Đại hội XI về hệ mục tiêu của đổi mới có hai điểm nhấn quan trọng:

Thứ nhất, khẳng định vị trí, vai trò của dân chủ, tác dụng to lớn của dân chủ đối với các mục tiêu khác "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Xây dựng xã hội ta thành một xã hội dân chủ với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là những điểm cốt yếu, quan trọng của chủ nghĩa xã hội Việt Nam.

Thứ hai, xác định hệ giá trị mục tiêu của đổi mới là đặc trưng tổng quát của chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng dưới sự lãnh đạo của Đảng là một xã hội "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".

Như vậy, việc xác định và hoàn thiện hệ mục tiêu đổi mới đã rõ ràng, phù hợp với thực tiễn, với mong muốn của toàn dân và được cộng đồng quốc tế đồng tình, ủng hộ. Quan niệm về xã hội xã hội chủ nghĩa như vậy thể hiện rõ tính dân tộc và tính nhân dân, chú trọng lợi ích quốc gia - dân tộc là cốt lõi, là mục tiêu hàng đầu của phát triển đất nước, phù hợp với xu hướng chung của sự phát triển thế giới. Quan niệm về xã hội xã hội chủ nghĩa như vậy vừa đúng quy luật, vừa thuận lòng dân, ý dân lại vừa hợp với xu thế thời đại.

Hai là, về đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Trải qua thực tiễn đổi mới, nhận thức lý luận của Đảng ta về các đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa được phát triển qua các nhiệm kỳ đại hội, nhất là trong Cương lĩnh năm 1991 và Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội VII (6-1991) xác định: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội do nhân dân lao động làm chủ; có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; có mối quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.

Từ sáu đặc trưng được nêu trong Cương lĩnh năm 1991, Đảng ta đã bổ sung, phát triển thành tám đặc trưng ở Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.

Xác định quyền làm chủ của nhân dân là đặc trưng nổi bật, thể hiện rõ mục tiêu, bản chất của chủ nghĩa xã hội. Bản chất của chủ nghĩa xã hội Việt Nam được thể hiện ở quyền làm chủ về kinh tế của nhân dân (bản chất kinh tế), ở xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa (bản chất chính trị), ở xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc (bản chất văn hóa); bản chất, mục tiêu của chủ nghĩa xã hội Việt Nam còn hướng tới con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.

Xác định Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là một đặc trưng quan trọng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng, đáp ứng yêu cầu phát triển dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân, thông qua sự ủy quyền và kiểm soát quyền lực của nhân dân.

Những bổ sung, phát triển nổi bật của Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 có ý nghĩa là những bước tiến của nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội của Đảng ta được thể hiện ở những điểm sau đây:

- Nhân dân làm chủ.

- Quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

- Quan hệ dân tộc trong quốc gia đa dân tộc là quan hệ bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển.

- Quan hệ quốc gia - dân tộc với cộng đồng quốc tế trong hội nhập là quan hệ hữu nghị, hợp tác.

- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo.

Tám đặc trưng được xác định trong Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 vừa phản ánh quan niệm tổng quát về chủ nghĩa xã hội vừa làm rõ nội dung các lĩnh vực của đời sống xã hội phải thực hiện. Tám đặc trưng đó trải qua xây dựng sẽ từng bước hình thành, từ định hướng tới định hình, bảo đảm yêu cầu phát triển hài hòa, bền vững chủ nghĩa xã hội Việt Nam.

Đặc biệt quan trọng là vai trò lãnh đạo của Đảng với tư cách là lực lượng tiên phong, lãnh đạo và cầm quyền được khẳng định chẳng những trong các văn kiện Đảng thời kỳ đổi mới mà còn được hiến định trong Hiến pháp 1992 và Hiến pháp 2013.

Ba là, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Tám phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ghi trong Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 có những phát triển mới so với Cương lĩnh năm 1991.

Đặt lên hàng đầu là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường. Thực hiện phương hướng này vừa phản ánh đặc điểm nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, vừa tính đến xu thế phát triển của thế giới đương đại.

Các phương hướng tiếp theo bao quát các mặt, các lĩnh vực của mô hình chủ nghĩa xã hội ở nước ta: Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.

Thực hiện tám phương hướng cơ bản tạo cơ sở để đạt được tám đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đây là quan hệ giữa định hướng xã hội chủ nghĩa với định hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, được thực hiện trong một quá trình lâu dài, phản ánh đúng đặc điểm, yêu cầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Đó là những tất yếu có tính quy luật đối với nước ta.

Bốn là, nhận thức đúng và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn trong phát triển

Phát hiện ra tám mối quan hệ lớn từ tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991-2011) và nhìn lại những chặng đường của 25 năm đổi mới (1986-2011) là một bước tiến mới, quan trọng về lý luận của Đảng ta. Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 xác định: Trong quá trình thực hiện các phương hướng cơ bản đó, phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn: Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ;... Không phiến diện, cực đoan, duy ý chí.

Tám đặc trưng xã hội xã hội chủ nghĩa, tám phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội, tám mối quan hệ lớn tạo thành hệ thống quan điểm lý luận chủ nghĩa xã hội Việt Nam, phản ánh quy luật và những tính quy luật của đổi mới - phát triển - công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong điều kiện bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, trong bối cảnh thời đại và thế giới đương đại.

3. Những thành tựu và hạn chế, yếu kém và một số bài học qua 30 năm đổi mới2

Ba mươi năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng trong sự nghiệp phát triển của nước ta, đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Đổi mới mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện, triệt để, là sự nghiệp cách mạng to lớn của toàn Đảng, toàn dân vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".

Nhìn tổng thể, qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đồng thời cũng còn nhiều vấn đề lớn, phức tạp, nhiều hạn chế, yếu kém cần phải tập trung giải quyết, khắc phục để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững.

Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường. Văn hóa - xã hội có bước phát triển; bộ mặt đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.

Những thành tựu đó tạo tiền đề quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển trong những năm tới; khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử.

Những thành tựu trên đây là do Đảng ta có đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, được nhân dân ủng hộ, tích cực thực hiện. Đảng ta đã nhận thức, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy tiếp truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại và vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam; có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định lý tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đồng thời nhạy bén, sáng tạo, kịp thời đưa ra những chủ trương, quyết sách phù hợp cho từng giai đoạn cách mạng, khi tình hình thế giới và trong nước thay đổi. Đông đảo cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân đã nỗ lực phấn đấu, tận dụng thời cơ, thuận lợi, vượt qua khó khăn, thách thức, thực hiện đường lối đổi mới. Sự nghiệp đổi mới được bạn bè quốc tế ủng hộ, hợp tác, giúp đỡ.

Bên cạnh những thành tựu, chúng ta còn nhiều hạn chế, yếu kém.

Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận còn bất cập, chưa làm rõ một số vấn đề đặt ra trong quá trình đổi mới để định hướng trong thực tiễn, cung cấp cơ sở khoa học cho hoạch định đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội còn có một số vấn đề cần phải qua tổng kết thực tiễn để tiếp tục làm rõ.

Kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng, yêu cầu và thực tế nguồn lực được huy động. Trong 10 năm gần đây, kinh tế vĩ mô thiếu ổn định, tốc độ tăng trưởng kinh tế suy giảm, phục hồi chậm. Chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động xã hội và năng lực cạnh tranh quốc gia của nền kinh tế còn thấp. Phát triển thiếu bền vững cả về kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường. Nhiều vấn đề bức xúc nảy sinh, nhất là các vấn đề xã hội và quản lý xã hội chưa được nhận thức đầy đủ và giải quyết có hiệu quả; còn tiềm ẩn những nhân tố và nguy cơ mất ổn định xã hội. Trên một số mặt, một số lĩnh vực, một bộ phận nhân dân chưa được thụ hưởng đầy đủ, công bằng thành quả của công cuộc đổi mới. Năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ.

Việc tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 không đạt được mục tiêu đề ra.

Bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (1-1994) nêu lên vẫn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp, như nguy cơ "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch với những thủ đoạn mới tinh vi và thâm độc chống phá ta và những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ. Niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng, chế độ có mặt bị giảm sút.

Những hạn chế, yếu kém trên đây có cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu.

Nhìn lại 30 năm đổi mới, từ những thành tựu cũng như những hạn chế, yếu kém, có thể rút ra một số bài học sau:

Một là, trong quá trình đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam.

Hai là, đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm "dân là gốc", vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân; phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc.

Ba là, đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; phải tôn trọng quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra.

Bốn là, phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết; kiên định độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi; kết hợp phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Năm là, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và của cả hệ thống chính trị; tăng cường mối quan hệ mật thiết với nhân dân.

4. Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới - mệnh lệnh của cuộc sống3

Những năm cuối thập niên thứ hai, chuyển sang thập niên thứ ba của thế kỷ XXI, xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển vẫn tiếp tục được đẩy mạnh. Tuy nhiên, tình hình thế giới, khu vực và tình hình trong nước xuất hiện những diễn biến mới, nhanh hơn, phức tạp hơn. Quá trình hình thành trật tự thế giới mới sẽ nảy sinh những diễn biến phức tạp về chính trị, quân sự tại nhiều khu vực và nhiều nước. Các nước lớn điều chỉnh chiến lược, vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa cạnh tranh, đấu tranh giành vị thế và lợi ích trên phạm vi toàn cầu, tại các khu vực và đặc biệt là tại châu Á - Thái Bình Dương, khu vực Đông Nam Á.

Toàn cầu hóa và cách mạng khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ thông tin, tiếp tục phát triển mạnh mẽ làm biến đổi sâu sắc mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội. Kinh tế thế giới vừa có bước phát triển, vừa đứng trước nhiều khó khăn, thách thức; tương quan sức mạnh kinh tế giữa các khu vực và các quốc gia có nhiều thay đổi. Những vấn đề toàn cầu như an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh mạng, an ninh nguồn nước, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh có nhiều diễn biến phức tạp. Các nhân tố đe dọa tới an ninh thế giới, đặc biệt là việc tranh chấp lãnh thổ, lãnh hải, tài nguyên, xung đột sắc tộc, tôn giáo, ly khai, bạo loạn, can thiệp lật đổ, khủng bố toàn cầu, chiến tranh mạng, chiến tranh cục bộ... tiếp tục diễn ra gay gắt ở nhiều khu vực. Cộng đồng quốc tế phải đối phó ngày càng quyết liệt với các thách thức an ninh truyền thống, phi truyền thống, an ninh mạng và các hình thái chiến tranh kiểu mới.

Ba mươi năm đổi mới đã tạo ra cho đất nước ta thế và lực mới. Thế mới và lực mới là tổng hòa những thành tựu hết sức to lớn, rất quan trọng về phát triển kinh tế, ổn định chính trị - xã hội, mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế. Thành quả và những kinh nghiệm, bài học thành công, chưa thành công chính là những tiền đề vật chất và tinh thần quan trọng để chúng ta tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới.

Kinh tế đất nước từng bước ra khỏi tình trạng suy giảm tăng trưởng, nhưng còn nhiều khó khăn và sẽ phải ứng phó với hai thách thức: "bẫy thu nhập trung bình" và "bẫy tự do hóa thương mại". Bốn nguy cơ mà Đảng ta nêu ra vẫn tồn tại. Nguy cơ "tụt hậu xa hơn về kinh tế" và sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên công chức và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí diễn biến phức tạp. Những biểu hiện xa rời mục tiêu chủ nghĩa xã hội, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" vẫn tồn tại, phức tạp, xuất hiện những âm mưu và hoạt động nhằm hình thành các tổ chức đối lập. Các thế lực thù địch tăng cường chống phá, thực hiện "diễn biến hòa bình", nhằm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Bảo vệ chủ quyền biển, đảo đứng trước nhiều khó khăn, thách thức lớn, nghiêm trọng. Niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân có mặt giảm sút.

Nhìn tổng thể, giai đoạn từ nay đến năm 2030, quá trình đổi mới của nước ta đang và sẽ chịu tác động nhiều chiều, nhiều hướng, với nhiều cấp độ từ những chuyển biến mới, phức tạp của tình hình thế giới, khu vực và trong nước. Cơ hội và thách thức đan xen; thời cơ có nhiều, song khó khăn, thách thức cũng rất lớn. Nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới, cao hơn, phức tạp hơn đang và sẽ đặt ra đối với sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân ta phải có quyết tâm chính trị cao và nỗ lực phấn đấu mạnh mẽ hơn, tận dụng được thời cơ, vượt qua khó khăn, thử thách, chuyển thách thức thành thời cơ, để tiếp tục đưa đất nước phát triển và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Căn cứ vào mục tiêu đã được xác định trong Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 và mục tiêu được nêu trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020; căn cứ vào tình hình, kết quả qua 30 năm đổi mới; bám sát thực tiễn đất nước và những diễn biến mới của tình hình khu vực, quốc tế; đối chiếu với những dự báo tình hình từ nay đến năm 2030, đặc biệt là khả năng thực hiện những tiêu chí quan trọng của một nước công nghiệp, có thể định hướng mục tiêu tiếp tục đổi mới từ nay đến năm 2020, tầm nhìn 2030 như sau:

Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, phát huy có hiệu quả mọi nguồn lực, động lực để phát triển đất nước nhanh, bền vững; không ngừng nâng cao mức sống của nhân dân; rút ngắn khoảng cách phát triển với các nước tiên tiến trong khu vực, nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế; phấn đấu sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, tiếp tục tạo nền tảng vững chắc để đến giữa thế kỷ XXI trở thành nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Để thực hiện thắng lợi định hướng mục tiêu trên, cần nắm vững những định hướng quan điểm chỉ đạo sau:

Một là, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân cần nhận thức sâu sắc tình hình mới, yêu cầu, nhiệm vụ mới; phát huy cao độ quyết tâm chính trị, tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, tận dụng mọi thời cơ, vượt qua mọi khó khăn, thách thức, thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".

Hai là, phát triển đất nước nhanh, bền vững, làm cho đất nước mạnh lên về mọi mặt phải được thấm nhuần sâu sắc trong mọi lĩnh vực đổi mới.

Ba là, củng cố, tăng cường sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp quốc gia to lớn trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Bốn là, thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa; tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương; chăm lo cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội; tạo sinh khí và động lực mạnh mẽ cho công cuộc đổi mới.

Năm là, nâng cao bản lĩnh, năng lực, hiệu quả hoạt động, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân của hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Để thực hiện thành công mục tiêu chiến lược trong suốt thời kỳ quá độ, Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 đã chỉ rõ tám phương hướng cơ bản, bao quát những vấn đề, lĩnh vực quan trọng nhất của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Cụ thể hóa tám phương hướng cơ bản đó vào quá trình đổi mới giai đoạn 2016-2030, có thể xác định một số định hướng về nhiệm vụ, giải pháp sau:

Một là, đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới bảo đảm phát huy hiệu quả mọi nguồn lực, động lực.

Hai là, hoàn thiện thể chế, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu để phát triển đất nước nhanh và bền vững.

Ba là, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, trọng tâm là xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện.

Bốn là, phát triển và quản lý phát triển xã hội bền vững trên nền tảng dân chủ, khoa học, thượng tôn pháp luật.

Năm là, xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với xây dựng, củng cố thế trận an ninh nhân dân và "thế trận lòng dân"; kiên quyết bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, đồng thời giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.

Sáu là, tiếp tục phát triển, đưa quan hệ đối ngoại vào chiều sâu; nâng cao chất lượng, hiệu quả hội nhập quốc tế; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phục vụ yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Bảy là, hoàn thiện và phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân; tạo sự đồng thuận xã hội vững chắc và sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Tám là, tập trung xây dựng và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Chín là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo - cầm quyền, sức chiến đấu của Đảng và vai trò tiên phong, gương mẫu của đảng viên trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Thực tiễn gần 30 năm đổi mới vừa qua, trong điều kiện diễn biến phức tạp, khó lường của tình hình khu vực, thế giới và những thuận lợi, khó khăn trong nước, những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà Đảng và nhân dân ta đạt được đã khẳng định đổi mới là sự lựa chọn chính xác và chứng minh đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo. Đồng thời những vấp váp, hạn chế, yếu kém trên con đường phát triển càng chứng tỏ đổi mới là một sự nghiệp khó khăn, lâu dài, phức tạp, đòi hỏi phải chủ động, kiên quyết, kiên trì và không ngừng sáng tạo, phải thường xuyên tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, rút kinh nghiệm để điều chỉnh, hoàn thiện đường lối, chủ trương, chính sách. Điều quan trọng nhất rút ra qua 30 năm đổi mới chính là: thực tiễn cho chúng ta căn cứ và niềm tin vững chắc để tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện, đồng bộ hơn vì tương lai tươi sáng của dân tộc, vì cuộc sống hạnh phúc của nhân dân - đó là mệnh lệnh của cuộc sống.

PGS. TS. NGUYỄN VIẾT THÔNG*
Bài viết trích trong cuốn Phê phán các quan điểm sai trái, bảo vệ nền tảng tư tưởng,
cương lĩnh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản

* Tổng Thư ký Hội đồng Lý luận Trung ương.

1. Xem Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986-2016), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015, tr.204-214.

2. Xem Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986-2016), Sđd, tr.190-203.

3. Xem Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986-2016), Sđd, tr.224-253.

Bình luận