Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác báo chí và truyền thông trong tình hình mới
Đồng chí Võ Văn Thưởng tham quan gian trưng bày của Báo Nhân Dân tại Hội Báo toàn quốc năm 2017 - Nguồn: nhandan.com.vn
Trong suốt tiến trình lãnh đạo nhân dân Việt Nam thực hiện cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước cũng như công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi trọng vai trò to lớn của báo chí, truyền thông.
1- Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò của báo chí và truyền thông đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước
Báo chí, truyền thông là vũ khí tư tưởng sắc bén của Đảng và Nhà nước, là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, là phương tiện quan trọng tuyên truyền phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, là diễn đàn để nhân dân tham gia quản lý xã hội, giám sát quyền lực, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Toàn bộ hệ thống báo chí, truyền thông ở Việt Nam đều là cơ quan của các tổ chức đảng, nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo báo chí, truyền thông bằng việc định hướng quy hoạch phát triển và quản lý hệ thống báo chí, truyền thông; định hướng tư tưởng, chính trị trong nội dung thông tin; quy hoạch, đào tạo, bố trí cán bộ; giám sát, kiểm tra hoạt động của các cơ quan báo chí và nhà báo; lãnh đạo việc tăng cường quản lý nhà nước về báo chí, truyền thông, coi trọng thể chế hóa đường lối, quan điểm của Đảng bằng chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là xây dựng, bổ sung, từng bước hoàn thiện hệ thống luật pháp đối với các các lĩnh vực báo chí, xuất bản, phát thanh, truyền hình và các phương tiện truyền thông khác trên intơnét.
Đảng, Nhà nước Việt Nam tôn trọng và bảo vệ quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận như một giá trị quan trọng của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bao gồm quyền tự do hoạt động nghề nghiệp của người hoạt động báo chí, truyền thông; quyền tự do tiếp cận thông tin; quyền tự do cá nhân và các tổ chức, cá nhân được bảo vệ trước báo chí, truyền thông. Điều 25 Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (năm 2013) quy định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình”. Tuy nhiên, quyền tự do báo chí không tách rời trách nhiệm chính trị - xã hội, trách nhiệm công dân và đạo đức nghề nghiệp của cơ quan báo chí và nhà báo. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Báo chí của ta thì cần phải phục vụ nhân dân lao động, phục vụ chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng đó của Người tiếp tục được quán triệt trong các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về báo chí, truyền thông. Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương tại Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: Các cơ quan truyền thông phải thực hiện đúng tôn chỉ, mục đích, đối tượng phục vụ, nâng cao tính tư tưởng, nhân văn và khoa học, đề cao trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, góp phần xây dựng văn hóa và con người Việt Nam. Ở Việt Nam, báo chí không bị kiểm duyệt trước khi in, truyền dẫn và phát sóng.
Nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng to lớn và đa dạng của nhân dân về thông tin, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương phát triển mạnh mẽ đi đôi với quản lý tốt hệ thống báo chí, truyền thông. Phát triển báo chí, truyền thông theo hướng cách mạng, chuyên nghiệp, hiện đại, hội nhập quốc tế, mở rộng quy mô ảnh hưởng, cân đối, hợp lý giữa các lĩnh vực, địa bàn trong nước và thế giới. Đảng lãnh đạo trong việc đề ra các chủ trương, chiến lược phát triển, nội dung thông tin, công tác cán bộ, cơ chế tài chính và tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của báo chí, truyền thông. Quản lý tốt nhằm phát huy cao nhất hiệu quả của hệ thống báo chí, truyền thông, đáp ứng nhu cầu thông tin ngày càng đa dạng, phong phú của nhân dân; tuyên truyền đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo đồng thuận trong xã hội; nâng cao dân trí, phát triển văn hóa, con người Việt Nam; tăng cường đoàn kết, hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế, với nhân dân tiến bộ trên thế giới; đồng thời nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những sai phạm, ảnh hưởng tiêu cực đến xã hội của những thông tin xấu, độc trên các phương tiện báo chí, truyền thông, nhất là truyền thông xã hội trên mạng intơnét. Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh: Chú trọng công tác quản lý các loại hình thông tin trên intơnét để định hướng tư tưởng và thẩm mỹ cho nhân dân, nhất là cho thanh niên, thiếu niên. Xã hội càng phát triển thì báo chí, truyền thông càng có vai trò to lớn, ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống xã hội. Công tác quản lý không những phải theo kịp sự phát triển nhanh chóng của báo chí, truyền thông, mà còn phải định hướng kịp thời, đúng đắn cho sự phát triển hợp lý và hiệu quả hệ thống báo chí, truyền thông của đất nước.
2- Thực trạng phát triển của báo chí, truyền thông dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, hệ thống báo chí, truyền thông Việt Nam đã phát triển nhanh cả về đội ngũ, trình độ, loại hình, quy mô, phương tiện, kỹ thuật - công nghệ; khả năng tác động và ảnh hưởng xã hội, đóng góp xứng đáng vào công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Hiện nay, Việt Nam có 859 tờ báo, tạp chí in, trong đó có 199 báo, 660 tạp chí; 135 báo, tạp chí điện tử; 67 đài phát thanh, truyền hình Trung ương và địa phương, trong đó có 02 đài quốc gia là Đài Truyền hình Việt Nam và Đài Tiếng nói Việt Nam, 01 đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC và 64 đài phát thanh, truyền hình địa phương. Các đài đã cho ra thêm nhiều kênh phát thanh, truyền hình, đưa số lượng các kênh chương trình phát thanh, truyền hình trong nước lên tới hơn 268 kênh, trong đó 86 kênh phát thanh và 142 kênh truyền hình. Đặc biệt, các trang mạng và truyền thông xã hội trên môi trường intơnét phát triển rất nhanh chóng. Sau 20 năm có mặt tại Việt Nam (1997 - 2017), intơnét đã trở nên phổ biến, mang đến cả thời cơ, thuận lợi, cả khó khăn, thách thức cho công tác quản lý. Cả nước có 125 cơ quan báo chí điện tử, hơn 1.500 trang thông tin điện tử tổng hợp; 270 mạng xã hội được cấp phép hoạt động. Có gần 59 triệu người sử dụng intơnét, chiếm 62,7 % dân số, Việt Nam xếp thứ 8 ở châu Á và thứ 18 trong số 20 quốc gia có tỷ lệ người dân sử dụng intơnét cao của thế giới.
Hệ thống luật pháp, hành lang pháp lý về hoạt động của báo chí, truyền thông có bước tiến bộ quan trọng, cơ bản điều chỉnh kịp thời, hợp lý hoạt động của tất cả các chuyên ngành báo chí, truyền thông, bảo vệ quyền và mở rộng khả năng, điều kiện tiếp cận thông tin của người dân. Các đạo luật: Luật Báo chí, Luật Xuất bản, Luật Quảng cáo, Luật Tiếp cận thông tin, Luật Tần số vô tuyến điện,... được xây dựng mới hoặc sửa đổi, bổ sung để đáp ứng với yêu cầu và điều kiện mới của xã hội và người dân.
Trong những năm qua, hệ thống báo chí, truyền thông đã góp phần to lớn vào việc tổ chức thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, pháp luật của Nhà nước Việt Nam, thực sự đóng vai trò là động lực thúc đẩy phát triển các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, con người, khoa học, kỹ thuật, bảo vệ Tổ quốc. Hệ thống báo chí, truyền thông cũng góp phần quan trọng vào việc mở rộng dân chủ, tăng cường sự giám sát, phản biện của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, phát huy vai trò của nhân dân trong việc tham gia trực tiếp vào quản lý phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết các vấn đề quốc kế dân sinh quan trọng. Đặc biệt, báo chí, truyền thông trở thành vũ khí quan trọng trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, quan liêu, tệ nạn xã hội. Hơn 70% các vụ việc tham nhũng, lãng phí được phát hiện, xử lý là do báo chí, truyền thông phát hiện. Thông qua phản ánh dư luận xã hội, phân tích, đánh giá nguyên nhân và các bài học từ các vụ, việc tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, báo chí, truyền thông đã góp phần răn đe, cảnh báo, ngăn chặn một phần tệ nạn tham nhũng, tiêu cực trong xã hội, giáo dục cán bộ, đảng viên sống trong sáng, gương mẫu thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Đặc biệt, với sự phát triển nhanh chóng, ứng dụng rộng rãi của công nghệ thông tin và mạng intơnét, báo chí, truyền thông đã thực sự trở thành trường học xã hội không biên giới trong việc giáo dục nâng cao hiểu biết, trình độ nhận thức cho nhân dân, tôn vinh các giá trị dân tộc, nhân văn tốt đẹp, góp phần phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Đồng thời, báo chí, truyền thông cũng trở thành cầu nối hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân tiến bộ, yêu chuộng hòa bình và bạn bè trên khắp thế giới, thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế, mở ra khả năng to lớn cho việc tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa của nhân loại để làm giàu thêm bản sắc văn hóa dân tộc.
Bên cạnh những ưu điểm, thành tựu to lớn và căn bản đó, hệ thống báo chí, truyền thông Việt Nam không tránh khỏi những hạn chế, khuyết điểm. Nhìn tổng thể, quy hoạch phát triển hệ thống báo chí, truyền thông chưa thực sự khoa học nên còn có những bộ phận chưa hợp lý, chồng chéo nhiệm vụ, gây lãng phí cho nguồn lực xã hội. Có lúc, có nơi, sự chỉ đạo của cấp ủy đảng, sự quản lý của cơ quan nhà nước chưa theo kịp với quy mô, tốc độ phát triển và diễn biến tình hình thực tế của báo chí, truyền thông. Một số cơ quan báo chí chưa tiếp cận với công nghệ thông tin, làm báo hiện đại, sản phẩm báo chí chưa thực sự hấp dẫn. Một số cơ quan báo chí còn sa đà khi thông tin các mặt tiêu cực của đời sống xã hội, chưa chú ý đúng mức việc phát hiện, cổ vũ, nhân rộng những nhân tố mới, điển hình tiên tiến, những mặt tích cực của xã hội. Một số cơ quan báo chí, truyền thông có biểu hiện thương mại hóa, xa rời tôn chỉ, mục đích, chưa làm tốt chức năng định hướng tư tưởng và dư luận xã hội, lấy tích cực đẩy lùi tiêu cực, chăm lo xây dựng con người. Trên mạng xã hội còn xuất hiện những thông tin thiếu trách nhiệm công dân, sai sự thật, kích động bạo lực, tuyên truyền những sản phẩm văn hóa lai căng, đồi trụy, ảnh hưởng tiêu cực đến văn hóa, lối sống tốt đẹp của dân tộc, nhất là giới trẻ. Trong thực tiễn, vẫn còn một số đối tượng bất mãn hoặc thù địch chống phá chế độ, chống phá đất nước từ bên trong và bên ngoài tung thông tin sai trái, xấu độc lên mạng xã hội, bóp méo sự thật, xuyên tạc đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Những thông tin này là những tác nhân gây nhiễu về tư tưởng, văn hóa, ảnh hưởng xấu đến sự đồng thuận trong nhân dân.
Từ thực tiễn công tác lãnh đạo báo chí, truyền thông ở Việt Nam có thể rút ra một số bài học:
Bài học thứ nhất có tính nguyên tắc bất di, bất dịch là phải luôn luôn giữ vững sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí, truyền thông. Sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí, truyền thông chính là một yêu cầu có ý nghĩa quyết định cho hoạt động báo chí bảo đảm tính cách mạng, dân chủ, khoa học, nhân văn, phục vụ đất nước, phục vụ đại đa số nhân dân. Nó bảo đảm cho báo chí không gian rộng lớn để tự do sáng tạo với mục đích trong sáng, cao cả, nhất là thúc đẩy xã hội phát triển, vì hòa bình, tiến bộ, vì hạnh phúc của nhân dân. Sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí, truyền thông phải được thực hiện đồng bộ cả 4 khâu: định hướng phát triển; định hướng nội dung; công tác cán bộ; công tác kiểm tra, kiểm soát, trong đó khâu cán bộ giữ vai trò quyết định. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”(1).
Bài học thứ hai, Đảng cần nhận thức đầy đủ và đúng đắn về vai trò to lớn, ảnh hưởng ngày càng mạnh mẽ của báo chí, truyền thông đối với xã hội, đối với việc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ cách mạng. Đây chính là cơ sở để Đảng đưa ra những chủ trương, giải pháp nhằm phát huy tốt nhất vai trò báo chí như một động lực thúc đẩy sự phát triển của mỗi địa phương, khu vực, ngành nghề nói riêng, sự phát triển của xã hội nói chung. Từ nhận thức này, mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng phải học tập, rèn luyện, mỗi cấp ủy phải nâng cao khả năng tổ chức, quản lý báo chí, truyền thông, hướng vào việc thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị.
Bài học thứ ba, Đảng cần thường xuyên chăm lo phát triển hệ thống báo chí, truyền thông một cách khoa học, hợp lý, đồng bộ cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Sự phát triển hệ thống báo chí, truyền thông không chỉ là vấn đề có tính quy luật trong xã hội hiện đại, góp phần thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao, phong phú của nhân dân, mà còn góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế, tăng cường giao lưu thông tin với các quốc gia, dân tộc khác trên thế giới, mở ra những điều kiện, cơ hội mới cho sự phát triển của đất nước.
Bài học thứ tư, Đảng cần đặc biệt quan tâm đến công tác tổ chức, cán bộ, công tác đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực báo chí, truyền thông. Hệ thống tổ chức các cơ quan báo chí, truyền thông phải được xây dựng khoa học, hợp lý, từng bước hoàn thiện về cơ chế vận hành. Đảng cần chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng, thường xuyên cập nhật, nâng cao nhận thức chính trị, trách nhiệm xã hội, trách nhiệm công dân và đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ người làm báo, những người hoạt động trong lĩnh vực truyền thông, đào luyện họ thành những chiến sỹ đáng tin cậy trên mặt trận tư tưởng, văn hóa. Các cấp ủy đảng phải đặc biệt quan tâm đến đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống báo chí, truyền thông, bồi dưỡng, rèn luyện, đánh giá, sắp xếp cán bộ hợp lý; kịp thời phát hiện và kiên quyết đưa ra khỏi vị trí lãnh đạo, quản lý đối với những người không đủ bản lĩnh chính trị, năng lực chuyên môn, những người có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.
3- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí, truyền thông trong tình hình mới
Thời gian tới, tình hình thế giới sẽ tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó lường. Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh đồng thời với những biểu hiện của xu hướng cạnh tranh, chủ nghĩa dân tộc, dân túy và chủ nghĩa bảo hộ về kinh tế. Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, tiếp tục phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ, thúc đẩy sự phát triển nhảy vọt trên nhiều lĩnh vực, tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia. Xu thế truyền thông đa phương tiện, truyền thông hội tụ phát triển thông tin đa dịch vụ, thông tin có tính tương tác, cá nhân hóa thông tin... tiếp tục làm thay đổi sâu sắc lối sống và các mối quan hệ xã hội, thúc đẩy sự đổi mới mạnh mẽ phương thức chỉ đạo, quản lý, phương thức hoạt động, tổ chức sản xuất, trao đổi, xử lý thông tin của các cơ quan, tổ chức hoạt động trong lĩnh vực báo chí, truyền thông.
Cộng đồng quốc tế phải đối phó ngày càng gay gắt hơn với các thách thức an ninh truyền thống, an ninh phi truyền thống, đặc biệt là an ninh mạng. An toàn, an ninh thông tin mạng ngày càng trở thành vấn đề quan trọng, nóng bỏng, bức xúc đối với mọi quốc gia, dân tộc, đối với từng gia đình, từng cá nhân con người.
Các quốc gia tham gia ngày càng sâu vào hệ thống sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Biến động của giá cả thế giới, sự bất ổn về tài chính, tiền tệ và vấn đề nợ công tiếp tục gây ra những hiệu ứng bất lợi đối với nền kinh tế thế giới. Tương quan sức mạnh kinh tế giữa các quốc gia, khu vực đang có nhiều thay đổi.
Những năm tới là thời kỳ Việt Nam sẽ bước sang một giai đoạn phát triển mới. Việt Nam phải thực hiện đầy đủ các cam kết trong Cộng đồng ASEAN và WTO, triển khai thực hiện nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, hội nhập quốc tế với tầm mức sâu rộng hơn nhiều so với giai đoạn trước. Tình hình kinh tế - xã hội đã có nhiều cải thiện tích cực, nhưng cũng đang đứng trước không ít khó khăn, thách thức về nhiều mặt. Nhu cầu tiếp cận thông tin của nhân dân ngày càng phát triển, đa dạng, phong phú hơn. Những nhiệm vụ đặt ra cho sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế trong giai đoạn tới là rất to lớn.
Bên cạnh đó, sự phát triển vũ bão của công nghệ thông tin, của mạng xã hội và của phương tiện truyền thông khác trên intơnét cũng mang tới cả những hệ lụy, mặt trái, mặt phức tạp; các thế lực thù địch, phản động chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ngày càng tinh vi, xảo quyệt.
Trong tình hình, điều kiện ấy, việc đổi mới, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với báo chí, truyền thông là một yêu cầu khách quan, cấp thiết, có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Thứ nhất, tăng cường vai trò, trách nhiệm, năng lực của các cấp ủy trong việc lãnh đạo, quản lý, phát triển hệ thống báo chí, truyền thông nhằm phát huy tốt nhất vai trò của báo chí, truyền thông trong thông tin, tuyên truyền, thực hiện các nhiệm vụ công tác tư tưởng, tạo sự thống nhất trong Đảng, đồng thuận của xã hội; coi trọng việc cổ vũ, thúc đẩy nhân tố mới, điển hình tiên tiến, hạn chế những tác động tiêu cực, bất lợi. Tích cực, chủ động đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, tệ nạn xã hội; phản bác có hiệu quả thông tin, quan điểm sai trái, thù địch. Không ngừng nâng cao chất lượng tư tưởng, văn hóa, tính chiến đấu, tính nhân văn, tính hấp dẫn, tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật, các nguồn lực cần thiết cho hệ thống báo chí, truyền thông.
Thứ hai, đổi mới, tăng cường công tác xây dựng Đảng, đề cao trách nhiệm cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, trong các cơ quan báo chí, truyền thông. Làm tốt công tác định hướng thông tin, cung cấp kịp thời thông tin cho báo chí những vấn đề, sự kiện quan trọng, phức tạp, nhạy cảm. Rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch phát triển hệ thống báo chí, truyền thông đại chúng, tránh trùng lặp, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ, gây lãng phí nguồn lực.
Thứ ba, tiếp tục hoàn thiện hệ thống các quy định của Đảng và các văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực báo chí, truyền thông, làm rõ hơn thẩm quyền, trách nhiệm, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, cơ quan chủ quản và từng cơ quan báo chí, truyền thông, các chủ thể truyền thông xã hội trên môi trường mạng intơnét. Tiếp tục tăng cường cơ chế phối hợp giữa Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin và Truyền thông, Hội Nhà báo Việt Nam và các ban, bộ, ngành của Đảng và Nhà nước trong công tác chỉ đạo, quản lý hoạt động báo chí, truyền thông. Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện các quy định đạo đức nghề nghiệp và giáo dục các chủ thể trong hoạt động báo chí, truyền thông tự giác thực hiện.
Thứ tư, thường xuyên đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng phẩm chất chính trị, năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp, trình độ ngoại ngữ và những hiểu biết về quan hệ quốc tế cho đội ngũ người làm báo. Coi trọng công tác rà soát, đánh giá đội ngũ cán bộ quản lý báo chí; thực hiện nghiêm các quy định, quy trình về bổ nhiệm, miễn nhiệm, thi đua, khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ lãnh đạo các cơ quan báo chí. Có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, bổ sung cán bộ có năng lực, đủ phẩm chất cho hệ thống báo chí. Tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất, nguồn lực và cơ chế để các cơ quan báo chí chủ lực phát triển, trở thành những trung tâm báo chí đa phương tiện mạnh, đủ năng lực chiếm lĩnh mặt trận thông tin, làm tốt công tác định hướng tư tưởng và dư luận xã hội.
Thứ năm, tăng cường công tác thông tin đối ngoại, làm tốt công tác quảng bá hình ảnh đất nước, các giá trị văn hóa đặc trưng của đất nước và con người Việt Nam đến với nhân dân và bạn bè trên thế giới. Làm tốt công tác hướng dẫn nhân dân trong việc tiếp thu những giá trị văn hóa tích cực, tiến bộ của nhân loại; cảnh giác, phê phán, đấu tranh với các biểu hiện du nhập sản phẩm văn hóa tiêu cực, trái với những thuần phong, mỹ tục của dân tộc, trái với các giá trị nhân văn, tiến bộ của nhân loại.
Thứ sáu, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách để quản lý mạng xã hội, các phương tiện truyền thông phi chính thống, phương tiện truyền thông nước ngoài trên intơnét hoạt động tại Việt Nam. Kiên quyết xử lý các trang mạng xã hội truyền bá thông tin xấu độc, phản động, xâm hại đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tăng cường công tác lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với báo chí, truyền thông trong tình hình mới là một đòi hỏi khách quan và cấp bách của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí, truyền thông trong thời gian tới không chỉ là điều kiện, là động lực quan trọng để làm tốt công tác tư tưởng, tạo sự đồng thuận xã hội, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của đất nước, mà còn bảo đảm quyền sáng tạo của báo chí, truyền thông, giúp báo chí, truyền thông hoàn thành trách nhiệm nặng nề, sứ mệnh cao cả của mình đối với đất nước, nhân dân ./.
--------------------------------------
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 5, tr. 273.
Võ Văn Thưởng
Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương
Theo Tạp chí cộng sản
Bài viết liên quan | Xem tất cả
- Đồng chí Hoàng Văn Thụ với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc
- Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từ trần
- Đồng chí Nguyễn Văn Tố - Nhà lãnh đạo tài năng, học giả uyên bác của Việt Nam
- Đồng chí Hoàng Đình Giong, lãnh đạo tiền bối tiêu biểu của Đảng và cách mạng Việt Nam
- Đồng chí Đào Duy Tùng với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc
- Đồng chí Nguyễn Lương Bằng - Người chiến sĩ cộng sản mẫu mực, người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
- Xây dựng và phát triển nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, mang đậm bản sắc “Cây tre Việt Nam”
- Sách đồng hành cùng doanh nghiệp trong thời đại công nghệ số
- Đồng chí Lương Khánh Thiện - người chiến sĩ cộng sản kiên trung, trọn đời cống hiến cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc
- Kỷ niệm 116 năm Ngày sinh Tổng Bí thư Lê Duẩn (07/4/1907 - 07/4/2023): Nhà lãnh đạo kiệt xuất trọn đời vì nước, vì dân
- Đồng chí Chu Huy Mân - Người cộng sản kiên cường, nhà chính trị xuất sắc của Đảng và Quân đội nhân dân Việt Nam (17/3/1913 - 17/3/2023)
- Đồng chí Huỳnh Tấn Phát - Người cộng sản kiên trung mẫu mực