Tăng cường sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay theo tinh thần Đại hội XII của Đảng

Ngày đăng: 06/11/2017 - 09:11

Tóm tắt: Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là “động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Phát huy tinh thần ấy, trong bối cảnh hội nhập quốc tế đặt nước ta trước những khó khăn và thách thức khó lường, để bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước, Đảng ta khẳng định: Tăng cường củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc là việc làm quan trọng và cấp bách của toàn Đảng, toàn dân và của cả hệ thống chính trị... là nhân tố bảo đảm sự thành công của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay.

Từ khóa: đại đoàn kết, đại đoàn kết dân tộc, hội nhập quốc tế

Trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, một trong những cội nguồn làm nên lịch sử oai hùng đó là tinh thần đại đoàn kết dân tộc. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế mang lại nhiều thời cơ và thách thức như hiện nay, vấn đề tăng cường sức mạnh đại đoàn kết dân tộc có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Nhất là, Đại hội XII của Đảng đã bổ sung nhiều điểm mới về vấn đề này nhằm tăng cường sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong bối cảnh mới, khẳng định “đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”1.

dai doan ket112017

Đại đoàn kết dân tộc là một truyền thống vô cùng quý báu, được hình thành và hun đúc trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Những chiến công hào hùng, vang dội trong lịch sử dân tộc Việt Nam đã chứng tỏ, các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm giành thắng lợi của dân tộc ta chủ yếu là nhờ tinh thần đại đoàn kết. Phát huy truyền thống vẻ vang đó, ngay từ những ngày đầu lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chú trọng xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Người chỉ rõ: “Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn”2. Thấm nhuần sâu sắc bài học ấy, Người thường xuyên chăm lo xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở lấy dân làm gốc, lấy liên minh công nhân - nông dân - trí thức làm nền tảng nhằm phát huy sức mạnh toàn dân tộc.

Tăng cường và phát huy tư tưởng đại đoàn kết đó của Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, coi đó là hạt nhân, là tấm gương của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đồng thời, Đảng xác định: Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối nhất quán của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới. Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trước xu hướng hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay, chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc càng phải được củng cố hơn bao giờ hết. Chỉ có đoàn kết mới giúp chúng ta vượt qua những thử thách đầy cam go mà hội nhập quốc tế đặt ra.

Hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa là quá trình phát triển tất yếu, là xu thế chung của thế giới hiện đại, tác động mạnh mẽ đến quan hệ quốc tế và đời sống của mỗi quốc gia, không hội nhập thì khó có thể phát triển, do đó, hội nhập quốc tế là lựa chọn tất yếu của hầu hết các quốc gia hiện nay.

Nhận thức tầm quan trọng của hội nhập quốc tế, Đảng ta chủ trương: Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để tranh thủ tối đa các nguồn lực từ bên ngoài phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hội nhập không nằm ngoài mục tiêu “mở rộng sự hợp tác và tranh thủ sự ủng hộ quốc tế”, đồng thời còn là cơ hội để kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, góp phần rút ngắn quá trình phát triển đất nước.

Hiện nay, nước ta đã bước vào một giai đoạn hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, từ kinh tế, chính trị đến an ninh - quốc phòng, văn hóa, giáo dục,… Tiến trình hội nhập quốc tế ở nước ta đã mang lại nhiều cơ hội phát triển kinh tế - xã hội, song cũng đặt nước ta trước nhiều thách thức lớn đó là: sự cạnh tranh càng trở nên gay gắt, gia tăng khoảng cách phân hóa giàu nghèo, tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế vào thị trường bên ngoài… Quá trình hội nhập quốc tế còn đặt ra những vấn đề mới về độc lập dân tộc, chủ quyền, duy trì và bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, đặc biệt là nguy cơ ngày một gia tăng của tình trạng khủng bố quốc tế, buôn lậu, tội phạm xuyên quốc gia, dịch bệnh, nhập cư bất hợp pháp…

Mặt trái của toàn cầu hóa và hội nhập cùng những hạn chế yếu kém trong quản lý có thể dẫn đến hệ quả xấu cho kinh tế, xã hội, ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh quốc gia trên nhiều mặt và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Mặt khác, tình hình chính trị - an ninh thế giới thay đổi nhanh chóng, diễn biến phức tạp, khó lường. Đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp vẫn diễn ra gay gắt; chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, hoạt động ly khai, can thiệp lật đổ, khủng bố, tranh chấp lãnh thổ diễn ra ngày càng phổ biến với tính chất ngày càng phức tạp. Ở trong nước, các thế lực thù địch ráo riết thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ. Hiện tượng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ có biểu hiện làm suy yếu tính đảng trong một bộ phận đội ngũ lãnh đạo và cán bộ, đảng viên của Đảng. Những vấn đề đó thể hiện âm mưu chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở nước ta hiện nay. Mục đích của việc chia rẽ này là nhằm làm tan rã, phá vỡ sức mạnh khối đoàn kết dân tộc, gây mất ổn định về chính trị - xã hội, tiến tới xóa bỏ chủ nghĩa xã hội, đưa đất nước ta đi theo quỹ đạo chính trị của phương Tây. Với chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, các thế lực thù địch còn lợi dụng những vấn đề dân tộc, tôn giáo để kích động gây chia rẽ nội bộ, làm suy yếu khối đại đoàn kết toàn dân tộc; từ đó xâm hại độc lập, chủ quyền và lợi ích quốc gia, dân tộc. Đặc biệt, những phần tử cơ hội còn tiếp tay cho các tổ chức phản động tìm mọi cách xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, vu khống chế độ ta “thiếu dân chủ”, “vi phạm nhân quyền”,… Chúng đưa ra những luận điệu sai lầm, phản động, cho rằng muốn xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân thì phải “hòa hợp dân tộc”, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

Trước tình hình trên, để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân phải đồng lòng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết, củng cố vai trò của Mặt trận Tổ quốc. Tuy nhiên trong những năm gần đây, công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước đang nảy sinh nhiều vấn đề mới, phức tạp, song các tổ chức xã hội nói chung chưa phát huy hết vai trò, trách nhiệm của mình. “Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ, có lúc, có nơi chưa phát huy được vai trò, sức mạnh của nhân dân. Chưa đánh giá và dự báo chính xác những diễn biến, thay đổi cơ cấu xã hội, tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân để có chủ trương phù hợp. Chủ trương, quan điểm của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc, về quyền và lợi ích hợp pháp của các giai cấp, tầng lớp nhân dân chưa được kịp thời thể chế hóa, hoặc đã thể chế hóa nhưng chưa thực hiện nghiêm túc. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân các cấp có lúc, có nơi chưa sâu sát các tầng lớp nhân dân và cơ sở, còn có biểu hiện hành chính hóa, chưa thiết thực, hiệu quả”3. Những yếu kém này đã được Đảng ta khẳng định tại Đại hội XII. Để khắc phục những hạn chế nêu trên, kịp thời đối phó với những vấn đề tiêu cực nảy sinh trong quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay, Đại hội XII của Đảng đã xác định: “Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo. Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước, tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc”4.

So với Đại hội XI, quan điểm về đại đoàn kết toàn dân tộc ở Đại hội XII có những điểm mới sau đây: Đại đoàn kết toàn dân tộc được nhấn mạnh là “động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”; “phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”; “tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc”; đề cao tinh thần khoan dung, yêu nước, tập hợp “mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước”; “tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước”, “tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc” nhằm chống lại mọi âm mưu chia rẽ, phá hoại thành quả cách mạng của các thế lực thù địch.

Cụ thể hóa phương hướng trên, khẳng định đại đoàn kết dân tộc là “động lực và nguồn lực to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, Văn kiện Đại hội XII đã bổ sung một số nhiệm vụ và giải pháp mới quan trọng nhằm củng cố và tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc:

Một là, tiếp tục thể chế hóa và cụ thể hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về đại đoàn kết dân tộc. Tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân: “Hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả các cơ chế, chính sách phát huy vai trò của nhân dân trong việc quyết định những vấn đề lớn của đất nước; bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”5. Quán triệt và thực hiện tốt hơn nữa quy chế dân chủ ở cơ sở, giải quyết kịp thời những vấn đề xã hội gây bức xúc dư luận…; đồng thời hoàn thiện hệ thống pháp luật, phát huy vai trò của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa để bảo đảm nhân dân thực sự là chủ và làm chủ.

Hai là, đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, bảo đảm mỗi người dân đều được thụ hưởng những thành quả của công cuộc đổi mới. Có thể nói, sợi dây liên kết quan trọng nhất giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội, giữa cá nhân với tập thể và toàn xã hội là lợi ích. Vì vậy, để động viên, quy tụ nhân dân tham gia các phong trào nhằm củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, cần quan tâm đến lợi ích thiết thân, chính đáng của mọi tầng lớp nhân dân một cách công bằng, hợp lý.

Ba là, các cấp ủy đảng và chính quyền phải thường xuyên đối thoại, lắng nghe, tiếp thu ý kiến, giải quyết các khó khăn, vướng mắc và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội cần làm tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội, tạo niềm tin cho quần chúng nhân dân. Tăng cường sự giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội là cơ sở tin cậy, tạo sự đồng thuận, nhất trí cao để ổn định chính trị - xã hội, phát triển toàn diện và bền vững đất nước.

Bốn là, bổ sung, làm rõ các chính sách tạo điều kiện cho các giai tầng xã hội phát huy hết tiềm năng của mình. Để phát huy sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc, Đảng, Nhà nước cần có chính sách cụ thể đối với từng thành phần, giai cấp, tầng lớp trong dân tộc Việt Nam, kể cả người Việt Nam ở nước ngoài. Kế thừa các quan điểm của Đại hội XI, tại Đại hội XII, Đảng ta đã bổ sung những quan điểm thể hiện sự quan tâm thiết thực đối với từng tầng lớp, giai cấp trong xã hội:

Trước hết, với giai cấp công nhân, kế thừa quan điểm của Đại hội XI, Đại hội XII bổ sung thêm: “Bảo đảm việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện điều kiện làm việc, nhà ở, các công trình phúc lợi phục vụ cho công nhân”6. Đó là những vấn đề lợi ích thiết thân, chính đáng, cần quan tâm hàng đầu đối với người công nhân để họ yên tâm phấn đấu, cống hiến cho sự nghiệp chung của đất nước.

Đối với giai cấp nông dân, Đại hội XII xác định rõ giai cấp nông dân là chủ thể của quá trình xây dựng nông thôn mới và do vậy, cần “nâng cao năng suất lao động trong nông nghiệp, mở rộng và nâng cao chất lượng cung ứng các dịch vụ cơ bản về điện, nước sạch, y tế, giáo dục, thông tin”7, tạo điều kiện tối đa để nông dân mở rộng sản xuất, phát triển nông nghiệp và dịch vụ, làm giàu hợp pháp.

Đối với đội ngũ trí thức, tiếp thu tinh thần Đại hội XI về sự đãi ngộ xứng đáng đối với trí thức, Đại hội XII nhấn mạnh: Cần phải tôn vinh họ và phải có cơ chế chính sách đặc biệt với nhân tài và thu hút nhân tài, bởi trong bối cảnh hội nhập hiện nay, khi tri thức là động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội thì hơn bao giờ hết, cần trọng dụng nhân tài, có những chính sách phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi để họ thể hiện và phát huy tài năng.

Đối với đội ngũ doanh nhân, kế thừa quan điểm của Đại hội XI, Đại hội XII tiếp tục thể hiện rõ sự quan tâm đến quyền lợi của doanh nhân và “tôn vinh những doanh nhân có nhiều đóng góp cho sự phát triển đất nước”, đồng thời khuyến khích họ sáng tạo, phát triển. Thực hiện chủ trương này, sau khi Đại hội XII thành công, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã tổ chức buổi gặp mặt doanh nghiệp Việt Nam với chủ đề “Doanh nghiệp Việt Nam - Động lực phát triển kinh tế của đất nước” để lắng nghe nguyện vọng của tầng lớp doanh nhân, tháo gỡ mọi rào cản để họ phát triển doanh nghiệp. Đây là việc làm thiết thực, cụ thể, tạo điều kiện cho các doanh nhân thành đạt trên các lĩnh vực kinh doanh của mình, đồng thời đóng góp cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Đối với thế hệ trẻ - tương lai của dân tộc, Đại hội XII đã bổ sung quan điểm, đổi mới nội dung, phương thức trong công tác giáo dục chính trị, tư tưởng nhằm nâng cao ý thức chính trị, bồi đắp truyền thống, lòng yêu nước, đạo đức cách mạng…; đồng thời xây dựng ý thức tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật cho thế hệ trẻ; tạo “cơ chế, chính sách phù hợp, tạo môi trường thuận lợi cho thế hệ trẻ học tập, nghiên cứu, lao động, giải trí, phát triển trí tuệ, kỹ năng, thể lực”8.

Đối với phụ nữ, kế thừa quan điểm của Đại hội XI, Báo cáo chính trị của Đại hội XII nhấn mạnh: Cần thực hiện tốt chính sách bình đẳng giới, tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển tài năng. Trong xã hội hiện đại, phụ nữ ngày càng có vai trò quan trọng, do đó những chính sách về giới cần tập trung tạo điều kiện tối đa cho phụ nữ tham gia nhiều hơn vào công tác quản lý xã hội, tạo môi trường để họ phấn đấu, thể hiện tài năng và thế mạnh của mình.

Ngoài ra, do nước ta là một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo, nên để phát huy sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc, Đại hội XII nhấn mạnh: Cần tiếp tục hoàn thiện các chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, dân tộc; phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo, dân tộc. Việc này mang lại tác dụng kép, không chỉ chống lại sự lợi dụng của các thế lực thù địch đối với vấn đề tôn giáo và dân tộc, mà còn khai thác, phát huy vai trò của họ đối với công cuộc xây dựng, phát triển đất nước.

Đối với đồng bào định cư ở nước ngoài, kế thừa quan điểm của Đại hội XI, thể hiện sự quan tâm sâu sắc, Đại hội XII bổ sung quan điểm “bảo hộ tính mạng, tài sản và các quyền, lợi ích chính đáng” nhằm phát huy tối đa vai trò của họ đối với công cuộc xây dựng đất nước. Chú trọng, phát huy vai trò của cộng đồng kiều bào là hết sức quan trọng, bởi nó không chỉ thu hút, tạo động lực cho người Việt Nam ở nước ngoài hướng về quê hương, phát huy truyền thống đoàn kết, yêu nước, mà còn góp phần giác ngộ, nâng cao hơn nữa tinh thần đoàn kết của những người dân trong nước vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Nhằm tạo động lực cốt lõi để phát triển, Đại hội XII còn nhấn mạnh: “Tiếp tục tăng cường củng cố tổ chức, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân”9. Tuy nhiên, để phát huy vai trò của tất cả các giai tầng xã hội, Đại hội XII của Đảng yêu cầu: “Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc”10. Quan điểm này nhằm nhấn mạnh hơn nữa vai trò vô cùng quan trọng của Đảng - hạt nhân quy tụ, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.

Bảo vệ và xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Để thực hiện hiệu quả hai nhiệm vụ này, việc củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc là việc làm quan trọng, cấp bách của toàn Đảng, toàn dân và của cả hệ thống chính trị nước ta. Sức mạnh của khối đại đoàn kết ấy cần được huy động và tổ chức trong thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nền quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân, tạo cơ sở, nền tảng vững chắc và là điều kiện quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công”. Tinh thần đoàn kết đó là nhân tố bảo đảm sự thành công trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay.

Thiếu tá, ThS. ĐẶNG CÔNG THÀNH

Khoa tư tưởng Hồ Chí Minh,

Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng

1, 3, 4, 5, 7, 8, 9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 158, 157, 158-159, 159, 161, 162, 166.

6, 10. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd., tr. 160.

2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 3, tr. 256.

Bình luận