Thu hút và sử dụng đầu tư trực tiếp nước ngoài trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
Tóm tắt: Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, hơn 30 năm qua, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã có đóng góp quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, quá trình thu hút và sử dụng FDI vẫn còn hạn chế, đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết như: hoàn thiện đổi mới cơ chế, chính sách và tổ chức thực hiện.
Từ khóa: đầu tư trực tiếp nước ngoài, môi trường đầu tư, nội lực, ngoại lực, thu hút và sử dụng FDI
1. Các nhân tố tác động đến việc thu hút và sử dụng FDI trong bối cảnh hội nhập quốc tế ở Việt Nam qua hơn 30 năm đổi mới
Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (12-1986) đã mở đầu quá trình đổi mới đất nước với bước ngoặt trong đổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế của Đảng ta, chủ trương mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế. Về chính sách kinh tế đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, Đại hội đã xác định những nội dung chính gồm: đẩy mạnh xuất nhập khẩu, tranh thủ vốn viện trợ và vay dài hạn, khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đây là hướng đi đúng đắn trong việc xử lý mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và mở rộng quan hệ đối ngoại trong bối cảnh các thế lực thù địch đang thực hiện chính sách bao vây, cấm vận về kinh tế, cô lập về chính trị đối với nước ta.
Sau Đại hội VI, một văn bản có giá trị và ý nghĩa quan trọng đối với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam là việc Quốc hội ban hành Luật đầu tư nước ngoài tháng 12-1987. Đây là văn bản pháp lý đầu tiên sau khi ViệtNamthống nhất nhằm kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài vào ViệtNam. Cùng với những kết quả đạt được và nhận thức được tầm quan trọng của kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, đến Đại hội X của Đảng tháng 4-2006, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã được xếp là một trong 5 thành phần kinh tế (kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài).
Đại hội XII của Đảng đã tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận, khẳng định vai trò của hội nhập quốc tế trong công cuộc đổi mới đất nước, nhấn mạnh hội nhập kinh tế quốc tế là nội dung cơ bản của hội nhập quốc tế. Đại hội đã phát triển định hướng về hội nhập quốc tế trong bối cảnh mới, xác định mục tiêu: “bảo đảm lợi ích tối cao quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Trên cơ sở vừa hợp tác, vừa đấu tranh, hoạt động đối ngoại nhằm phục vụ mục tiêu giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân,... nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và góp phần cho sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”1.
ÂÂ Thực tiễn hơn 30 năm đổi mới ở nước ta cho thấy chủ trương thu hút và sử dụng các nguồn lực bên ngoài có vị trí quan trọng trong việc thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển bền vững, hỗ trợ nguồn lực cho đầu tư phát triển, thực hiện xóa đói giảm nghèo và góp phần xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trong bối cảnh toàn cầu hóa không chỉ là xu thế khách quan mà còn là quá trình tất yếu.
Theo đánh giá của các chuyên gia, Việt Nam có nhiều lợi thế trong việc thu hút các nguồn lực bên ngoài, trong đó có FDI. Việt Nam nằm ở khu vực Đông Nam Á, thuộc châu Á - Thái Bình Dương, đây là khu vực phát triển năng động nhất hiện nay. Đặc biệt, với hơn 3.000 km đường bờ biển kéo dài từ Bắc vào Nam, Việt Nam có vị trí thuận lợi để xây dựng các cảng nước sâu cũng như tiếp cận các mạng lưới vận chuyển hàng hóa, hàng hải quốc tế. Đây được coi là một lợi thế rất lớn của Việt Nam trong mối quan hệ giao thương toàn cầu. Mặt khác, Việt Nam vốn là một nước nông nghiệp, lại nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới nên có nhiều thế mạnh trong việc phát triển nông nghiệp, trở thành một nguồn cung cấp nông - lâm - thủy sản tương đối trọng điểm cho khu vực và thế giới. Với dân số gần 100 triệu người, trong đó dân số trong độ tuổi lao động chiếm khoảng 60%, phần lớn là lao động trẻ, có khả năng tiếp thu kiến thức, kinh nghiệm và tiến bộ khoa học - công nghệ; hơn nữa, lao động thuộc loại rẻ trong khu vực và thế giới, tạo điều kiện để thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Sau hơn 30 năm đổi mới và mở cửa nền kinh tế, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội, nhất là xóa đói giảm nghèo và thực hiện các mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc, nền kinh tế liên tục tăng trưởng với tốc độ khá cao so với bình quân của thế giới và khu vực. Mặc dù liên tục phải đối mặt với những bất ổn và thách thức khi nền kinh tế thế giới trải qua giai đoạn suy thoái trong 10 năm gần đây, Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng GDP trung bình trên 6%/năm. Chính phủ cũng đặt mục tiêu đến năm 2035, Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung bình cao. Tốc độ tăng trưởng cao và ổn định qua nhiều năm luôn là yếu tố thu hút các nhà đầu tư. Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức cao, Việt Nam cũng thành công trong việc duy trì ổn định các chỉ số kinh tế vĩ mô khác như: tỷ lệ lạm phát những năm gần đây được kiểm soát ở mức dưới 5%, tỷ giá ngoại hối được duy trì ở mức ổn định, không có những biến động bất thường, tăng trưởng tín dụng được kiểm soát. Chính phủ liêm chính, kiến tạo, hành động quyết liệt vì doanh nghiệp và người dân, tích cực cải thiện môi trường đầu tư đã đem lại kết quả rõ rệt. Trong Báo cáo Doing Business 2018 được Ngân hàng Thế giới công bố ngày 31-10-2017 cho thấy, môi trường kinh doanh ở Việt Nam đã có sự cải thiện đáng kể, nền kinh tế vươn lên vị trí 68/190 nền kinh tế, tăng 14 bậc so với năm 2016.
Đồng thời, chính sách mở cửa nền kinh tế đã góp phần khẳng định vai trò và vị thế ngày càng quan trọng của Việt Nam trong nền kinh tế khu vực và thế giới. Tháng 11 vừa qua, Việt Nam đã tổ chức thành công Tuần lễ Cấp cao APEC (Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương), với sự có mặt của nguyên thủ 21 quốc gia và vùng lãnh thổ tại thành phố Đà Nẵng. Hiện nay, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 185 nước, quan hệ kinh tế với 224 nước và vùng lãnh thổ, thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với 15 nước, quan hệ đối tác toàn diện với 11 nước, đồng thời là thành viên của hầu hết các tổ chức khu vực và thế giới.
Các nhân tố trên là điều kiện khách quan và chủ quan để Việt Nam thu hút và sử dụng thành công nguồn vốn FDI, được dư luận quốc tế đánh giá cao, coi Việt Nam là một điểm sáng trong việc thu hút và sử dụng các nguồn lực bên ngoài.
2. Kết quả của việc thu hút và sử dụng FDI trong bối cảnh hội nhập quốc tế ở Việt Nam
Theo số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), tính đến ngày 20-8-2017 đã có 124 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam, với tổng số 23.792 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký là 307,86 tỉ USD. 8 tháng đầu năm 2017, tổng vốn đăng ký cấp mới, tăng thêm và góp vốn mua cổ phần đạt 23,36 tỉ USD, tăng 45,1% so với cùng kỳ năm 2016, vốn thực hiện đạt 10,3 tỉ USD, tăng 5,1%. Như vậy, trong 8 tháng đầu năm 2017 thu hút đầu tư nước ngoài đã xấp xỉ bằng cả năm 2016. Cơ cấu FDI đầu tư trong 8 tháng đầu năm 2017 theo lĩnh vực là: 50,0% cho công nghiệp chế biến, chế tạo (11,69 tỉ USD); 22,9% cho sản xuất, phân phối điện (5,36 tỉ USD); 5,5% cho lĩnh vực khai khoáng (1,28 tỉ USD); 21,6% cho các lĩnh vực khác. Theo Cục Đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 18 ngành, lĩnh vực, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo là lĩnh vực thu hút sự quan tâm đặc biệt của nhà đầu tư nước ngoài. Tình hình giải ngân vốn và sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong 8 tháng đầu năm cũng tăng trưởng tương đối cao, đạt 10,3 tỉ USD.
Trong thời gian qua, khu vực FDI đã đóng góp quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam. Theo thống kê, khu vực này đóng góp tới 70% kim ngạch xuất khẩu, 50% giá trị sản xuất công nghiệp, 22-25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, đóng góp khoảng 15-19% nguồn thu ngân sách. Có thể khẳng định, trong hơn 30 năm đổi mới, khu vực FDI đã thực sự được coi là một trong những động lực tăng trưởng của kinh tế Việt Nam.
Đồng thời, khu vực FDI liên tục là khu vực phát triển năng động nhất với tốc độ GDP cao hơn tốc độ tăng trưởng của cả nước, tỷ trọng đóng góp của khu vực FDI trong GDP năm 2016 đạt mức trên 20,1%, cao hơn năm 2015. Khu vực FDI cũng đóng góp quan trọngvào ngân sách nhà nước, năm 2016 dự toán đạt mức trên 5,8 tỉ USD. Khu vực này cũng tạo thêm việc làm trực tiếp cho khoảng 3,5 triệu lao động và nhiều triệu lao động gián tiếp khác.
Về tổng thể kinh tế vĩ mô, sau hơn 30 năm đổi mới, khu vực FDI đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế với nhiều ngành nghề, sản phẩm công nghiệp, dịch vụ mới,… hỗ trợ cho phát triển nông nghiệp và nông thôn, góp phần thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, nâng cao năng lực quản lý kinh tế, quản trị doanh nghiệp, hỗ trợ quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và thay đổi cơ cấu lao động.
Bên cạnh những đóng góp tích cực, quan trọng của khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, trong thời gian qua, quan hệ giữa nhà nước - thị trường và doanh nghiệp có vốn FDI trong nền kinh tế thị trường hội nhập quốc tế ở Việt Nam đã bộc lộ những hạn chế nhất định, mục tiêu của Nhà nước trong chủ trương, chính sách đối với doanh nghiệp FDI vẫn chưa thực hiện được căn bản, cụ thể:
- Mục tiêu thu hút công nghệ cao, công nghệ nguồn và chuyển giao công nghệ thông qua thu hút FDI chưa đạt được như kỳ vọng. Hiệu ứng lan tỏa của khu vực FDI đối với khu vực trong nước còn hạn chế.
- Một số dự án được cấp phép nhưng chưa bảo đảm tính bền vững, tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm môi trường, tiêu tốn năng lượng, sử dụng tài nguyên không hiệu quả. Thực tế thời gian qua cho thấy ở nhiều địa phương của Việt Nam, do ưu tiên thu hút đầu tư nước ngoài nên đã dẫn đến việc thiếu tiêu chí sàng lọc dự án tốt, thân thiện với môi trường, nên hậu quả là không ít dự án đầu tư nước ngoài có công nghệ thấp, gây tác hại nghiêm trọng đến môi trường như dự án của Công ty Formosa ở các tỉnh miền Trung vừa qua.
- Xuất hiện những hiện tượng tiêu cực như: đầu tư bất động sản chui; tình trạng các dự án FDI sử dụng lao động nước ngoài, chủ yếu là lao động thủ công,đã làm gia tăng sự cạnh tranh với lao động trong nước và gây áp lực đối với các dịch vụ công cộng, tiềm ẩn các rủi ro về an ninh, trật tự xã hội.
- Hiện tượng“chuyển giá”giữa công ty mẹ và công ty con dẫn đến tình trạng “lỗ giả lãi thật” nhằm trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế, ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài.
- Quá trình thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI trong quá trình đổi mới ở Việt Nam còn hạn chế, chưa thu hút được nhiều nhà đầu tư tiềm năng đến từ các nước phát triển ở châu Âu, châu Mỹ, mà mới chủ yếu từ các nước châu Á như Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Trung Quốc,…
- Tình trạng mất cân đối về hình thức đầu tư: hình thức doanh nghiệp FDI 100% vốn nước ngoài hiện chiếm trên 80%, trong khi đó hình thức liên doanh giữa doanh nghiệp đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp đối tác trong nước lại có xu hướng giảm2.
- Quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài mặc dù đang từng bước được hoàn thiện nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới trong nước và quốc tế, nhất là trong việc phân cấp và thống nhất quản lý giữa Trung ương và địa phương về các dự án đầu tư nước ngoài; vẫn còn hiện tượng nhiều địa phương chưa tuân thủ quy định, quy trình thẩm định - cấp phép, chưa xem xét kỹ các yêu cầu về quy hoạch, thiếu cân nhắc đầy đủ các yếu tố liên quan.
- Trong cơ cấu ngành công nghiệp Việt Nam, công nghiệp phụ trợ còn chưa phát triển, tính chất gia công làm thuê còn phổ biến, khả năng tham gia vào mạng sản xuất, chuỗi giá trị của khu vực và quốc tế còn hạn chế trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới.ÂÂ
Nguyên nhân của những hạn chế nói trên là do trở ngại trong việc thu hút đầu tư nước ngoài như: kết cấu hạ tầng, chất lượng nguồn nhân lực, cải cách thể chế; mặc dù được Nhà nước xác định là 3 điểm “nghẽn” chủ yếu của nền kinh tế nhưng chưa được khắc phục căn bản,do vậy chưa đáp ứng được yêu cầu của quá trình mở cửa hội nhập, dẫn đến giảm thu hút, giảm khả năng hấp thụ cũng như hiệu quả của đầu tư nước ngoài ở Việt Nam. Bên cạnh đó, hệ thống luật pháp, chính sách của Nhà nước liên quan đến đầu tư nước ngoài bị chồng chéo, chia cắt làm giảm hiệu lực thi hành, hệ thống pháp luật đầu tư thiếu tính ổn định, minh bạch và đồng bộ; khoảng cách giữa các quy định của pháp luật và việc thực thi gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp; ngành công nghiệp hỗ trợ chưa phát triển, chính sách về công nghiệp hỗ trợ chưa đủ mạnh và hấp dẫn. Chính sách ưu đãi nhiều hơn cho doanh nghiệp nước ngoài đã tạo ra thách thức, cạnh tranh không bình đẳng đối với doanh nghiệp trong nước. Theo các cam kết quốc tế, Việt Nam phải dành ưu đãi cho các doanh nghiệp nước ngoài không kém hơn so với doanh nghiệp trong nước. Tuy nhiên trên thực tế, hầu hết những ưu đãi cho doanh nghiệp nước ngoài đều cao hơn cho doanh nghiệp trong nước như ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế xuất nhập khẩu, tiếp cận đất đai, các nguồn vốn,...
3. Định hướng và giải pháp
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã đề ra chủ trương đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đó là: “Rà soát, sửa đổi pháp luật, chính sách để thu hút mạnh đầu tư nước ngoài, nhất là các dự án có công nghệ cao, thân thiện với môi trường, sản phẩm có giá trị gia tăng và tỷ lệ nội địa hóa cao, tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế. Tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài có công nghệ cao, thân thiện môi trường, sử dụng nhiều lao động. Khuyến khích đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng và các ngành công nghiệp hỗ trợ, năng lượng tái tạo, vật liệu mới, điện tử, công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, giống cây trồng, vật nuôi, đào tạo nhân lực và chăm sóc sức khỏe chất lượng cao,… Có cơ chế ưu đãi linh hoạt đối với các dự án đặc thù. Khuyến khích thành lập các trung tâm nghiên cứu triển khai của doanh nghiệp đầu tư nước ngoài tại Việt Nam”3.
Qua thực tiễn hơn 30 năm đổi mới và thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, để việc thu hút và sử dụng FDI ngày càng có hiệu quả, chất lượng hơn nữa, cần phải: Thay đổi định hướng thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI, không nên thu hút nguồn vốn này bằng mọi giá, làm cạn kiệt nguồn tài nguyên đất nước, gây ô nhiễm môi trường, biến Việt Nam thành “bãi rác” của thế giới; không chạy theo số lượng dự án FDI, mà phải chú ý tới chất lượng các dự án, quan tâm thu hút các dự án công nghệ cao, hỗ trợ triển khai hiệu quả Cách mạng công nghiệp 4.0 ở Việt Nam, phát triển kinh tế xanh, thân thiện với môi trường.
Trong việc vay vốn ODA, không nên chạy theo số lượng dự án được vay vốn hỗ trợ mà phải chú ý tính khả thi, hiệu quả của dự án, tránh tình trạng sử dụng lãng phí, coi vốn ODA như “của trời cho”, dẫn đến tình trạng chậm thanh toán cho các dự án vốn vay ODA, làm tăng nợ công của nền kinh tế Việt Nam.
Về tổng thể, Nhà nước cần có chính sách xử lý thỏa đáng mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, xây dựng nền kinh tế có khả năng tự chủ cao, ứng phó được với những biến động kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, an ninh kinh tế đất nước. Tăng cường thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư nước ngoài, xử lý hiệu quả mối quan hệ giữa nhà nước - thị trường và doanh nghiệp có vốn FDI trong nền kinh tế thị trường hội nhập quốc tế ở Việt Nam.
Theo hướng này, cần tập trung vào các giải pháp sau:
- Thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng gắn liền với cơ cấu lại nền kinh tế, coi đây vừa là tiền đề vừa là hệ quả hội nhập kinh tế quốc tế, là giải pháp có tính quyết định để nâng cao nội lực nhằm tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức của giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế mới, bảo đảm nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững.
- Tiếp tục thực hiện ba đột phá chiến lược, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi cho phát triển nhanh và bền vững, thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị trong tình hình mới và thực thi các cam kết quốc tế, huy động mạnh mẽ mọi nguồn lực trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển.
- Tập trung nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, sản phẩm và doanh nghiệp, tập trung ưu tiên phát triển nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
- Trong 5 - 10 năm tới, tập trung khai thác hiệu quả các cam kết quốc tế về kinh tế, xây dựng các cơ chế chính sách phòng vệ thương mại, phòng ngừa và giải quyết tranh chấp quốc tế, có chính sách phù hợp hỗ trợ các lĩnh vực có năng lực cạnh tranh thấp; tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho cán bộ có trình độ pháp luật quốc tế, xây dựng hàng rào kỹ thuật, các biện pháp phòng vệ chủ động, hiệu quả.
- Tăng cường công tác tư tưởng, nâng cao nhận thức của mọi tầng lớp nhân dân, của cán bộ, đảng viên về hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng và hội nhập quốc tế nói chung, nhất là trong việc thu hút và sử dụng các nguồn vốn bên ngoài như FDI, tránh tình trạng huy động các nguồn vốn này bằng mọi giá mà không chú trọng đến tính hiệu quả, bảo vệ môi trường, tính liên kết lan tỏa trong nền kinh tế.
- Về mặt quản lý nhà nước, cần thống nhất đầu mối quản lý nợ công. Trong thời gian qua, việc giao cho 3 cơ quan tham gia quản lý nợ công đã gây nên tình trạng quản lý nợ công phân tán, chồng chéo, không cơ quan, cá nhân nào chịu trách nhiệm chính. Để khắc phục tình trạng này, Quốc hội đã dành nhiều thời gian thảo luận về Luật quản lý nợ công (sửa đổi) nhằm giải quyết nợ xấu, tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, góp phần phát triển nền kinh tế ổn định, bền vững. Điều này cũng phù hợp với tinh thần của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa XII một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả trên nguyên tắc “Một việc chỉ giao cho một cơ quan, một người chủ trì chịu trách nhiệm”. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao năng lực thực thi pháp luật; tăng cường quốc phòng an ninh, chủ động đấu tranh kịp thời với những âm mưu, ý đồ thông qua hội nhập kinh tế quốc tế, huy động các nguồn lực bên ngoài để xâm phạm chủ quyền, an ninh quốc gia; bảo vệ và phát huy những giá trị văn hóa dân tộc, giải quyết tốt vấn đề môi trường.
PGS.TSKH. Trần Nguyễn Tuyên
Hội đồng Lý luận Trung ương
1, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 153, 292-293.
2.“FDI 2017, vượt khó tiếp tục đà tăng trưởng”, Thời báo Kinh tế Việt Nam, số 20-30, ngày 24-1– 4-2-2017, tr. 65.
Bài viết liên quan | Xem tất cả
- Đồng chí Hoàng Văn Thụ với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc
- Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từ trần
- Đồng chí Nguyễn Văn Tố - Nhà lãnh đạo tài năng, học giả uyên bác của Việt Nam
- Đồng chí Hoàng Đình Giong, lãnh đạo tiền bối tiêu biểu của Đảng và cách mạng Việt Nam
- Đồng chí Đào Duy Tùng với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc
- Đồng chí Nguyễn Lương Bằng - Người chiến sĩ cộng sản mẫu mực, người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
- Xây dựng và phát triển nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, mang đậm bản sắc “Cây tre Việt Nam”
- Sách đồng hành cùng doanh nghiệp trong thời đại công nghệ số
- Đồng chí Lương Khánh Thiện - người chiến sĩ cộng sản kiên trung, trọn đời cống hiến cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc
- Kỷ niệm 116 năm Ngày sinh Tổng Bí thư Lê Duẩn (07/4/1907 - 07/4/2023): Nhà lãnh đạo kiệt xuất trọn đời vì nước, vì dân
- Đồng chí Chu Huy Mân - Người cộng sản kiên cường, nhà chính trị xuất sắc của Đảng và Quân đội nhân dân Việt Nam (17/3/1913 - 17/3/2023)
- Đồng chí Huỳnh Tấn Phát - Người cộng sản kiên trung mẫu mực