Cơ sở khoa học về ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong cán bộ, công chức, viên chức ở VN

Ngày đăng: 08/02/2018 - 16:02

Hội thảo khoa học: “Cơ sở khoa học về ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, công chức, viên chức ở Việt Nam” là một trong những nhiệm vụ nghiên cứu của Đề tài quốc gia, mã số KX04.04/16-20 thuộc Chương trình Nghiên cứu khoa học lý luận chính trị giai đoạn 2016-2020 (KX04/16-20) được tổ chức công phu với mục tiêu cung cấp những luận cứ khoa học nhằm lý giải những vấn đề lý luận cần thiết để ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Hội thảo hướng tới các tiếp cận khoa học trong và ngoài nước; khung phân tích lý luận dưới góc độ các môn khoa học xã hội và nhân văn; các lý thuyết liên quan tới suy thoái, tha hóa, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Hơn nữa, Hội thảo luận giải cách thức, công cụ, cơ chế để ngăn chặn, đẩy lùi hiệu quả việc suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở Việt Nam hiện nay và những vấn đề đặt ra cần giải quyết.

Đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ là đòi hỏi cấp bách nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng và củng cố lòng tin của Nhân dân vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhận thức rõ điều này, Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nối tiếp từ các đợt “chỉnh huấn”, “chỉnh Đảng” mà Đảng và Bác Hồ đã tiến hành vào những năm 1950-1960. Tuy nhiên, công tác xây dựng Đảng trong những năm qua còn nhiều hạn chế, bất cập; nhiều yếu kém, khuyết điểm kéo dài không được khắc phục triệt để, không những không giảm mà còn có chiều hướng gia tăng, trở thành những vấn đề bức xúc trong xã hội, làm giảm sút năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, làm suy giảm lòng tin của Nhân dân đối với Đảng. Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII nhấn mạnh: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước... Nhiều tổ chức đảng, đảng viên còn hạn chế trong nhận thức, lơ là, mất cảnh giác, lúng túng trong nhận diện và đấu tranh, ngăn chặn “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; việc đấu tranh, phản bác những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, tổ chức phản động, phần tử cơ hội, bất mãn chính trị còn bị động, thiếu sắc bén và hiệu quả chưa cao”[1].

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn lo ngại về những nguy cơ của một đảng cầm quyền đó là quá trình ngày càng gia tăng của sự thoái hóa, biến chất về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống... của đội ngũ cán bộ, đảng viên với những biểu hiện như hẹp hòi, tham danh vọng, địa vị, hủ hóa, kiêu ngạo, ba hoa, chủ quan. Nguyên nhân của bệnh chủ quan là: “Kém lý luận, hoặc khinh lý luận, hoặc lý luận suông”[2]. Đó là những lực cản của sự phát triển. Vì vậy, Người yêu cầu Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới; phải đẩy lùi mọi biểu hiện thoái hóa, biến chất của cán bộ, đảng viên trong điều kiện Đảng cầm quyền. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”[3].

Tại Hội nghị triển khai Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và các chỉ thị, nghị quyết khóa XII ngày 27-5-2016, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ rằng trong khi ở nhiều nơi, đời sống nhân dân còn khó khăn, nhiều yêu cầu thiết yếu của quần chúng chưa được bảo đảm, thì có những cán bộ, đảng viên chỉ lo thu vén cá nhân, xoay xở làm giàu, ăn uống chè chén bê tha; thậm chí có người vô trách nhiệm với dân, vô cảm trước những khó khăn, đau khổ của quần chúng. Một số người còn lợi dụng chức quyền để đục khoét, vơ vét của cải của Nhà nước, của tập thể, trở thành những con sâu, mọt tệ hại của xã hội. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng đó là, sự thiếu tu dưỡng, rèn luyện, giảm sút ý chí chiến đấu; sa vào chủ nghĩa cá nhân, quên trách nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước dân; ngại khó, ngại khổ, ngại va chạm; bất chấp đạo lý, dư luận; kỷ luật, kỷ cương không nghiêm của một bộ phận cán bộ, đảng viên không gương mẫu, nói không đi đôi với làm, thiếu quyết tâm chỉ đạo còn diễn ra ở một số tổ chức đảng, cấp ủy viên. Từ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống tất yếu dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Quá trình này diễn ra nhanh chóng, chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hay câu kết với các thế lực thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.

Trong khuôn khổ Hội thảo, dưới nhiều góc độ và cách tiếp cận khoa học khác nhau, các tham luận đã đề cập tới nhiều vấn đề lý luận, cơ sở lý thuyết đa chiều, khá phong phú, giàu tính gợi mở để đề tài có thêm căn cứ khoa học giải quyết tốt các nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra. Chúng tôi có thể tổng hợp những kết quả thể hiện trong các tham luận như sau:

- Nhóm vấn đề thứ nhất về phương pháp luận, các khái niệm phạm trù cơ bản, công cụ ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái

Nhiều tham luận đã phân tích nhiều góc cạnh các phạm trù cơ bản về ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Thuật ngữ “suy thoái về tư tưởng chính trị” lần đầu tiên được Đảng ta chính thức sử dụng trong văn kiện Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII (2-1999). Suy thoái về tư tưởng chính trị thực chất là sự biến đổi theo chiều hướng xấu dần về phẩm chất chính trị của một bộ phận cán bộ, đảng viên, dẫn tới sự xa rời những nguyên tắc, quan điểm chính trị. Sự suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên hiện nay là sự suy giảm đến mức báo động về đạo đức, lối sống theo chiều hướng tiêu cực, tệ nạn tham nhũng, “lợi ích nhóm”, làm ảnh hưởng tới uy tín của Đảng, lòng tin của Nhân dân vào Đảng Cộng sản Việt Nam. “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ được đề cập trong văn kiện Đảng, là sự diễn biến từ bên trong, tới mức nhất định, là hậu quả của sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên; là quá trình tự biến đổi về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống theo chiều hướng tiêu cực, làm mất dần các giá trị chuẩn mực của người đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam dẫn đến suy giảm niềm tin vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thiếu niềm tin và có thể từ bỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng và Nhân dân ta đã lựa chọn.

Trên cơ sở làm rõ nội hàm các khái niệm và phạm trù liên quan, các tham luận cũng nghiên cứu các tiêu chí nhằm ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Đây là công việc có ý nghĩa rất quan trọng không chỉ về mặt phương pháp luận và nhận thức luận mà còn là tiền đề, điều kiện, là công cụ để xem xét, phân tích, lý giải những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra.

- Nhóm vấn đề thứ hai về căn nguyên, nhân tố tác động tới hiệu quả ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái

Nhiều tham luận tập trung lý giải nhiều chiều các nguyên nhân khiến cho việc ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, công chức, viên chức không hiệu quả, vướng nhiều hạn chế, yếu kém. Các phân tích đã chỉ ra những hạn chế, yếu kém trong công tác ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái do nhiều nguyên nhân, bao gồm nguyên nhân khách quan (xử lý chưa tốt các tác động tiêu cực của quá trình toàn cầu hóa, cơ chế kinh tế thị trường; sự chống phá của các thế lực thù địch,...), nguyên nhân chủ quan (sự yếu kém trong nhận thức hoặc nhận thức chưa đầy đủ về tầm quan trọng của việc ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; hiệu lực, hiệu quả quản lý chưa cao, kỷ luật, kỷ cương không nghiêm; công tác kiểm tra, giám sát và xử lý kỷ luật đảng còn nhiều hạn chế; sự thiếu tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên, đặc biệt thiếu gương mẫu của cán bộ chủ chốt đứng đầu...). Trong đó, những nguyên nhân chủ quan đóng vai trò quyết định.

Đồng thời, một số tham luận đã phát hiện, dự báo và đánh giá ảnh hưởng của những yếu tố tác động tích cực, tiêu cực đến việc ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, công chức, viên chức ở Việt Nam.

- Nhóm vấn đề thứ ba về kinh nghiệm quốc tế liên quan tới việc ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái đạo đức, tham nhũng,...

Một số tham luận giới thiệu các nghiên cứu quốc tế về ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức công vụ, tham nhũng, hối lộ, trục lợi cá nhân, “lợi ích nhóm”, tha hóa quyền lực,... kinh nghiệm quốc tế về phát triển đội ngũ cán bộ, công chức liêm chính, trách nhiệm, chuyên nghiệp; xây dựng bộ máy hiệu lực, hiệu quả, các tham luận đã đưa ra các bài học và các hàm ý chính sách đối với Việt Nam.

Từ các bài học kinh nghiệm của các quốc gia về phát triển đội ngũ cán bộ, công chức liêm chính, trách nhiệm và chuyên nghiệp (Trung Quốc, Nhật Bản); xây dựng chính phủ liêm chính, minh bạch (Hàn Quốc); xây dựng chế tài xử phạt nghiêm minh đối với cán bộ, công chức suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức (Trung Quốc), kinh nghiệm chống tham nhũng thành công nhờ chuyên chế, làm cho quan chức không dám, không thể, không cần, không muốn tham nhũng (Xingapo); kinh nghiệm sử dụng giáo dục, đào tạo là công cụ cốt lõi trong ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức trong đội ngũ cán bộ, công chức (Hoa Kỳ)... Các tham luận đã đưa ra những gợi ý hết sức quý báu đối với nhiệm vụ ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, công chức, viên chức ở Việt Nam.

Như vậy, những kết quả nghiên cứu khoa học thể hiện trong các tham luận là thành quả của trí tuệ, nhiệt huyết và trách nhiệm của các nhà khoa học, các nhà lãnh đạo, quản lý, hoạt động thực tiễn, quan tâm tới công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị. Tất nhiên, đây mới là những khai phá bước đầu, trên cơ sở nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn. Hơn nữa, công tác ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, công chức, viên chức là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, là nhiệm vụ hết sức quan trọng, nhưng vô cùng khó khăn, phức tạp.

Chính vì vậy, Ban Tổ chức Hội thảo đề nghị các quý vị tham gia Hội thảo tiếp tục thảo luận và làm sáng tỏ các vấn đề lý luận sau:

Thứ nhất, cần có tiếp cận đa ngành, đa lĩnh vực trong xây dựng khung khổ lý luận cho việc nhận thức vấn đề ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái. Những vấn đề nghiên cứu của đề tài cần xem xét dưới góc độ của môn khoa học xã hội và nhân văn như chính trị học, triết học đạo đức, kinh tế chính trị, xã hội học và tâm lý học. Không thể nghiên cứu tư tưởng chính trị, đạo đức ở bên ngoài chính trị học và triết học, bỏ qua mối quan hệ của hệ thống chính trị, tư tưởng chính trị, đạo đức với những phạm trù tồn tại, hoạt động, ý thức, quyền lực, đảng cầm quyền,...

Bản chất hiện tượng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là những vấn đề xã hội, chịu sự chi phối của điều kiện vật chất, các thiết chế xã hội và tác động ngược lại tới các mối quan hệ xã hội. Vì vậy, việc nghiên cứu, thực hiện khảo sát, đánh giá tình hình phải theo các phương pháp xã hội học.

Biểu hiện, hành vi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong xã hội, đặc biệt trong cán bộ, đảng viên là phức tạp, rất nhạy cảm, liên quan tới nhân cách, tư tưởng, lối sống, đạo đức cá nhân mỗi con người. Do đó, việc sử dụng các phương pháp tâm lý học trong nghiên cứu sẽ mang lại những kết quả định tính có ý nghĩa cho đề tài. Việc ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái gắn chặt với việc điều chỉnh hành vi con người trong những điều kiện hoàn cảnh tổ chức xã hội ở các mức độ khác nhau.

Thứ hai, xây dựng các tiêu chí để đánh giá hiệu quả của việc ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, công chức, viên chức. Các tiêu chí đánh giá cần cụ thể, có thể định lượng ở mức có thể, bên cạnh các tiêu chí định tính.

Đây là yêu cầu rất quan trọng của đề tài. Tiêu chí đánh giá là công cụ hữu ích để phân tích so sánh thực trạng công tác đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái hiện nay, cũng là căn cứ khoa học, rõ ràng để củng cố các giải pháp để các hoạt động ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái hiệu quả hơn.

Thứ ba, xây dựng, hoàn thiện các công cụ cần thiết, hiệu lực, hiệu quả để ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái; đánh giá khách quan, chính xác hiệu lực của các công cụ đã được Đảng và Nhà nước sử dụng trong thời gian qua. Cần chỉ rõ những vướng mắc về nhận thức, về cơ chế, cách tổ chức thực hiện cần tháo gỡ. Đặc biệt, khuyến khích các phát hiện chỉ ra những lực cản, những mâu thuẫn trong quá trình thực hiện.

Hệ thống các công cụ cần xây dựng, hoàn thiện bảo đảm hiệu lực thực thi cao, hướng tới trả lời các câu hỏi cơ bản là làm gì, làm như thế nào để suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của cán bộ, công chức, viên chức được ngăn chặn, đẩy lùi trong thời gian tới.

Thứ tư, làm rõ các yếu tố tác động (tích cực, tiêu cực) đến việc ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Làm rõ các yếu tố tác động như chính trị, pháp lý, kinh tế, xã hội, văn hóa,... và cơ chế tác động của chúng tới hoạt động đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái.

Việc tìm ra yếu tố tác động tích cực và tiêu cực đến việc ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến” và “tự chuyển hoá” là nhiệm vụ nghiên cứu quan trọng, góp phần tìm các giải pháp căn cơ, tổng thể cho việc ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái.

Thứ năm, tiếp tục dự báo sự biến động của bối cảnh quốc tế và trong nước, những thách thức mới, những vấn đề đặt ra có tác động sâu sắc đối với cuộc đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở Việt Nam. Đây là nhiệm vụ quan trọng nhằm đề xuất những giải pháp hiệu quả và thiết thực.

Tham khảo các nghiên cứu quốc tế về ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức công vụ, tham nhũng, hối lộ, trục lợi cá nhân, “lợi ích nhóm”, tha hóa quyền lực, cơ chế kiểm soát quyền lực trong hệ thống chính trị... Phát triển đội ngũ cán bộ, công chức liêm chính, trách nhiệm, chuyên nghiệp; xây dựng bộ máy hiệu lực, hiệu quả. Chắt lọc những cơ sở lý luận và thực tiễn hợp lý từ các nước tiên tiến để áp dụng sáng tạo vào điều kiện chính trị, pháp lý của Việt Nam.

Tóm lại, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, công chức, viên chức là vấn đề cấp bách và vô cùng khó khăn, phức tạp, đòi hỏi sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, sức mạnh của toàn thể nhân dân. Nghiên cứu cơ sở khoa học của vấn đề này là bước đi công phu, tinh tế đòi hỏi các luận cứ khoa học xác đáng, thuyết phục và tin cậy. Bước đi này cần được thực hiện một cách bài bản, nghiêm túc nhằm tạo sự chuyển biến rõ rệt, mạnh mẽ trong công tác xây dựng Đảng, bảo đảm Đảng Cộng sản Việt Nam ngang tầm với trọng trách lịch sử thời kỳ mới, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, trách nhiệm, năng lực và động cơ đúng đắn, thực sự tiên phong, gương mẫu, phục vụ Nhân dân theo mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

PGS.TS. Phạm Minh Chính*

Bài viết trích trong cuốn Cơ sở khoa học về ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ở Việt Nam do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản



* Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương, Chủ nhiệm đề tài khoa học cấp quốc gia KX04.04/16-20.

[1]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.22-23.

[2]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.5, tr.273.

[3]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr. 672.

Bình luận