Phát huy bài học về sự thống nhất giữa "ý Đảng, lòng dân"

Ngày đăng: 22/02/2018 - 09:02

Từ giữa năm 1965, sau khi chiến lược "chiến tranh đặc biệt" thất bại, đế quốc Mỹ buộc phải chuyển sang chiến lược "chiến tranh cục bộ", ồ ạt đổ quân viễn chinh vào miền nam Việt Nam, sử dụng hai gọng kìm "tìm - diệt" và "bình định nông thôn". Theo đó, chúng tiến hành hàng nghìn cuộc hành quân với quy mô lớn nhỏ khác nhau trên khắp chiến trường miền nam, hòng tiêu diệt cơ quan đầu não, đơn vị chủ lực Quân giải phóng và cơ sở cách mạng của ta, gây nên biết bao hy sinh, mất mát, đau thương cho đồng bào và chiến sĩ miền nam.

Trước tình hình nêu trên, Bộ Chính trị, trực tiếp là Quân ủy TW, Bộ Tổng Tư lệnh nhận định: Để đánh bại chiến lược "chiến tranh cục bộ" không thể dùng cách đánh thông thường, phải tìm cách đánh khác để đập tan ý chí xâm lược của Mỹ; đồng thời, chỉ đạo các cấp ủy miền nam, các bộ tư lệnh chiến trường rà soát, đánh giá tình hình, tạo thế chủ động trên chiến trường, tiến tới giành thắng lợi to lớn hơn.

Tại Hội nghị TW 14 khóa III (tháng 1-1968), Ban Chấp hành TW Đảng nhấn mạnh: Để chuyển cách mạng và chiến tranh cách mạng sang thời kỳ mới, giành thắng lợi quyết định, phải chọn hướng chiến lược hiểm và dùng cách đánh mới, mở cuộc Tổng Tiến công và nổi dậy (TTC-ND) trên chiến trường miền nam. Hội nghị chỉ rõ hướng tiến công là các thành phố, thị xã, thị trấn và cơ quan đầu não chiến tranh, trung tâm chỉ huy, hậu cứ của địch, lấy ba thành phố lớn là Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng làm trọng điểm... Để xây dựng quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ, các cấp ủy đảng trong và ngoài quân đội, cơ quan chính trị các cấp chủ động làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng. Đồng thời, cổ vũ truyền thống yêu nước, ý chí quyết chiến, quyết thắng quân xâm lược; làm cho quân và dân ta thấm sâu lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Không có gì quý hơn độc lập, tự do"; "Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu, quét sạch nó đi"...

Phát huy thế trận chiến tranh nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, Quân giải phóng đã huy động được lực lượng lớn đồng bào các tỉnh miền đông Nam Bộ tham gia cuộc TTC-ND, vận chuyển vũ khí, lương thực, thực phẩm vào nội đô; cứu thương, tải thương khi chiến sự nổ ra. Thực hiện phong trào xây dựng "hũ gạo nuôi quân", trước Tết Mậu Thân 1968, mỗi gia đình để sẵn năm lon gạo đón chủ lực và mỗi tuần quyên góp một lần do Hội Phụ nữ phát động. Các huyện đều thành lập đội cung cấp, huy động lương thực, thực phẩm phục vụ TTC-ND. Mỗi xã có ban quân lương, đội cứu thương, tải thương. Nhiều hộ gia đình đào hầm nuôi giấu thương binh, cất giấu vũ khí. Điển hình như gia đình bà Nguyên (Má Bảy) ở Trảng Bàng, đào hầm giấu 45 tấn vũ khí tại vị trí cách đồn Mỹ chỉ 1 km.

Đến đầu năm 1968, Quân giải phóng đã xây dựng được 19 lõm chính trị với 325 gia đình, 12 kho vũ khí, 400 điểm ém quân, phần lớn ở gần các mục tiêu dự kiến sẽ đánh chiếm.

Thực hiện tư tưởng chỉ đạo và quyết tâm chiến lược của Đảng, đêm 30, rạng sáng 31-1-1968 (đêm giao thừa), quân và dân miền nam, từ Trị - Thiên đến Khu 5 và Nam Bộ đồng loạt tiến công và nổi dậy nhằm vào các thành phố, thị xã, nhất là ở Sài Gòn, Đà Nẵng, Huế, các căn cứ quân sự, sân bay, bến cảng, kho tàng, gây cho Mỹ và chính quyền Sài Gòn tổn thất lớn... Ở Huế, ta làm chủ hoàn toàn thành phố, tổ chức chính quyền cách mạng, chiếm giữ 25 ngày, đánh lui hàng trăm đợt phản kích của địch. Tại Sài Gòn - Gia Định, quân và dân ta đánh trúng nhiều mục tiêu đầu não, như: Tòa Đại sứ Mỹ, Dinh Gia Long, Bộ Tổng Tham mưu... Phối hợp các mũi tiến công quân sự, lực lượng chính trị của quần chúng đồng loạt nổi dậy, phá tan "ấp chiến lược", giành quyền làm chủ ở nhiều nơi, mở rộng vùng giải phóng.

Cuộc TTC-ND Xuân Mậu Thân 1968 là đòn đánh chí tử đối với quân xâm lược Mỹ, làm cho chiến lược "chiến tranh cục bộ" của Mỹ ở miền nam bị phá sản hoàn toàn. Tuy chưa mang lại thắng lợi trọn vẹn, thậm chí sau đó ta còn gặp khó khăn, tổn thất nhất định, nhưng đây là một thắng lợi mang tầm vóc lịch sử; thể hiện ý chí quyết tâm đánh Mỹ, thắng Mỹ, khát vọng độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, tạo bước ngoặt đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đến thắng lợi hoàn toàn; đồng thời khẳng định sức mạnh của sự thống nhất giữa "ý Đảng" và "lòng dân". Càng trong lúc gian khổ, ác liệt, hy sinh, mối quan hệ này càng thể hiện rõ nét, trở thành bài học vô giá không chỉ trong giai đoạn lịch sử lúc đó, mà còn có giá trị trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực có những diễn biến phức tạp, khó lường. Đối với nước ta, bên cạnh thuận lợi là cơ bản, song còn nhiều khó khăn, thách thức; các thế lực thù địch tập trung chống phá quyết liệt, thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ, "phi chính trị hóa", "dân sự hóa" quân đội. Bên cạnh đó, một bộ phận cán bộ, đảng viên có biểu hiện quan liêu, tham nhũng, xa rời quần chúng, làm ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân đối với Đảng, với chế độ. Điều đó đã và đang đặt ra những yêu cầu mới đối với sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hơn bao giờ hết, chúng ta phải tiếp tục phát huy bài học về sự thống nhất giữa "ý Đảng, lòng dân" của Cuộc TTC-ND Xuân Mậu Thân 1968; trong đó, tập trung thực hiện tốt một số vấn đề cơ bản sau:

Một là, xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Thực tiễn cách mạng Việt Nam và Cuộc TTC-ND Xuân Mậu Thân 1968 chỉ ra rằng, "ý Đảng, lòng dân" luôn hòa quyện, thống nhất, tạo nên sức mạnh vô địch của chủ nghĩa anh hùng cách mạng để chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Càng những lúc khó khăn, phức tạp thì "ý Đảng, lòng dân" càng được tăng cường và thống nhất với nhau. "Ý Đảng" được biểu hiện tập trung ở đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng phải đúng đắn, xuất phát từ tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân và yêu cầu của sự nghiệp cách mạng. "Lòng dân" được thể hiện ở niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và việc chấp hành đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng do Đảng lãnh đạo; mục tiêu, lợi ích cao nhất của Đảng là phục vụ nhân dân, vì mục tiêu, lợi ích của quần chúng nhân dân.

Để thực hiện điều đó, Đảng ta luôn tự đổi mới, chỉnh đốn, xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Trên cơ sở nắm vững quy luật khách quan, chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bám sát thực tiễn và nguyện vọng chính đáng của nhân dân để đề ra đường lối, chủ trương đúng đắn, hợp lòng dân; đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế. Đảng tập trung lãnh đạo đẩy mạnh phát triển kinh tế; giữ vững ổn định chính trị - xã hội; tăng cường quốc phòng - an ninh; nâng cao đời sống nhân dân, hướng tới mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Đồng thời, làm tốt công tác xây dựng Đảng theo Nghị quyết T.Ư 4 (khóa XII), Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên thật sự là "công bộc" của dân, "dĩ công vi thượng", gắn bó mật thiết với nhân dân; đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, khắc phục biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ; phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực và phong cách làm việc theo kiểu "quan cách mạng", xa dân, không bám nắm cơ sở, không hiểu tâm tư, nguyện vọng chính đáng của người dân.

Hai là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) trong sạch, vững mạnh, thật sự là của dân, do dân, vì dân. Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã quy định rõ: Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Do đó, sự thống nhất giữa "ý Đảng, lòng dân" còn được thể hiện thông qua hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Vì thế, cần tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN thật sự trong sạch, vững mạnh, của dân, do dân, vì dân, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân. Theo đó, cần phải coi trọng hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế kiểm tra, giám sát các hoạt động và quyết định của cơ quan công quyền theo hướng phục vụ tốt nhất cho người dân. Đặc biệt, cần coi trọng phát huy vai trò của Quốc hội - cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, nhằm thể chế hóa đường lối, quan điểm của Đảng, quyết định những vấn đề hệ trọng của đất nước, giải quyết những vấn đề bức xúc trong xã hội, như: Xóa đói, giảm nghèo, thu hẹp khoảng cách giàu - nghèo giữa các vùng, miền và tầng lớp dân cư; tạo việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, thực hiện an sinh xã hội... Đồng thời, giữ vững kỷ cương phép nước, nâng cao hiệu quả thực thi thượng tôn của pháp luật; quan tâm đến lợi ích chính đáng của nhân dân đi đôi với kiên quyết đấu tranh với mọi biểu hiện lợi dụng quyền dân chủ, vi phạm pháp luật, có những hành vi chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ, xâm phạm quyền công dân, gây tổn hại lợi ích quốc gia, dân tộc. Tăng cường đạo đức công vụ của cán bộ, công chức, nâng cao ý thức phục vụ, đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực, tình trạng sách nhiễu, quan liêu, tham nhũng,... trong các cơ quan công quyền.

Ba là, đề cao vai trò của MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội trong vận động, tập hợp nhân dân. Là thành viên trong hệ thống chính trị và là cơ sở chính trị của hệ thống chính quyền nhân dân, MTTQ Việt Nam có vai trò quan trọng tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, vận động, giáo dục và thu hút các lực lượng xã hội vào thực hiện phong trào hành động cách mạng của Đảng, xây dựng "ý Đảng, lòng dân". Vì vậy, MTTQ cần phối hợp đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động, nâng cao nhận thức cho các tầng lớp nhân dân về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các quy định của địa phương. Tổ chức tốt phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động, trọng tâm là các cuộc vận động: "Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh", "Ngày vì người nghèo" và "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam"... Đồng thời, MTTQ và đoàn thể chính trị - xã hội các cấp cần chú trọng kiện toàn tổ chức, tích cực đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động theo phương châm "Hướng về cơ sở, bám cơ sở"; thường xuyên phối hợp, gặp gỡ, trao đổi, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng, kiến nghị của nhân dân, kịp thời tham mưu, đề xuất cấp ủy, chính quyền biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết dứt điểm ngay từ cơ sở. Nâng cao chất lượng phản biện, giám sát xã hội; động viên toàn dân chung sức xây dựng nông thôn mới, khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa, xóa đói, giảm nghèo và các hủ tục lạc hậu...

Bốn là, phát huy vai trò của Quân đội trong tiến hành công tác dân vận, góp phần xây dựng "thế trận lòng dân" vững chắc. Từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, Quân đội nhân dân Việt Nam là quân đội cách mạng, có mối quan hệ máu thịt với nhân dân. Trong tình hình mới, Quân đội cần phát huy vai trò "đội quân công tác", tích cực tiến hành công tác dân vận, góp phần quan trọng vào việc tăng cường mối quan hệ đoàn kết quân - dân, xây dựng "thế trận lòng dân" vững chắc, thống nhất giữa "ý Đảng, lòng dân". Công tác dân vận trong quân đội cần đặt trọng tâm vào tham gia xây dựng, củng cố, nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở; giúp dân phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xóa đói, giảm nghèo, phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo và các chính sách xã hội. Đồng thời, tuyên truyền, vận động nhân dân đấu tranh chống "diễn biến hòa bình", không bị lôi kéo vào những luận điệu xuyên tạc, kích động của các thế lực thù địch nhằm chia rẽ Đảng, Nhà nước, quân đội với nhân dân; nêu cao ý thức cảnh giác cách mạng, tích cực tham gia xây dựng "thế trận quốc phòng toàn dân", "thế trận an ninh nhân dân", thực hiện các phong trào, các cuộc vận động do Đảng, Nhà nước, MTTQ Việt Nam phát động. Các đơn vị bộ đội chủ lực, bộ đội biên phòng, đơn vị kinh tế - quốc phòng hoạt động trên các địa bàn chiến lược, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo cần đẩy mạnh công tác dân vận; phát huy sức mạnh của quần chúng nhân dân vào cuộc đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm, bài trừ hủ tục, tạo môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường quốc phòng - an ninh, giữ vững ổn định chính trị - xã hội...

Kế thừa và phát huy bài học kinh nghiệm về sự thống nhất giữa "ý Đảng, lòng dân" trong Cuộc TTC-ND Xuân Mậu Thân 1968 vào thực tiễn hiện nay là vấn đề có ý nghĩa quan trọng, cấp thiết. Thực hiện tốt điều đó, sẽ góp phần quan trọng tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng và nhân dân; làm cho Đảng hiểu dân, dân tin Đảng, tạo sức mạnh tổng hợp thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Thượng tướng NGUYỄN TRỌNG NGHĨA

Ủy viên TW Đảng, Ủy viên Quân ủy TW, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam

(Theo Báo Nhân Dân điện tử)

Bình luận