Một số vấn đề lý luận về ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"

Ngày đăng: 15/03/2018 - 12:03

I- Những tiền đề xuất phát

1. Tiền đề lý luận thứ nhất: Tiếp cận từ hai phương diện của phép biện chứng

Trong lịch sử tư tưởng triết học, có hai kiểu của phép biện chứng:

- Phép biện chứng hướng ra thế giới khách quan: Đây là xu hướng chủ yếu của triết học phương Tây, mà triết học Mác là một biểu hiện. Nội dung căn bản của phép biện chứng này quan niệm biện chứng của tự nhiên (biện chứng khách quan) chi phối quyết định đến biện chứng của tư duy (biện chứng chủ quan). Đặc điểm là đề cao nhận thức lý tính, duy lý, chia cắt, hữu hạn, hữu hình, phân tích đối tượng để nghiên cứu, thành các hệ thống tư tưởng thay thế nhau. Theo nghĩa khác, hoàn cảnh khách quan quyết định bản chất của nhận thức, của tư duy con người. Bản chất con người mang tính xã hội - lịch sử. Do đó, muốn cải tạo con người trước hết và giữ vai trò quyết định là phải cải tạo hoàn cảnh, cải tạo xã hội...

- Phép biện chứng hướng vào thế giới nội tâm (phép biện chứng hướng nội). Đây là xu hướng chủ yếu ở các nền văn hóa Ấn Độ, Trung Quốc cổ đại: Tập trung nghiên cứu lĩnh vực tinh thần, những đặc tính, tính chất, quá trình của nhận thức, tình cảm, ý chí con người trong sự (dường như) tách biệt hẳn với thế giới khách quan, bên ngoài. Nội dung căn bản của phép biện chứng này là tìm ra những nguyên tắc, quy luật của nhận thức, tình cảm như là “sự tái hiện”, “tự nhận thức thế giới tinh thần”, “chiêm nghiệm”, “giải thoát”, “trầm ngâm”, “tập trung tư tưởng - yoga”, “đề cao sức mạnh của tinh thần, ý chí, sự tu thân, tu dưỡng đạo đức, trình độ học vấn...”. Đặc điểm là thường tư duy về cái vô hạn, siêu hình, chỉnh thể; trên cơ sở hệ thống tư tưởng cốt lõi ban đầu các hệ thống sau chỉ bổ sung, phát triển thêm, không thay thế nhau... Trường phái này cũng khó có thể xếp vào chủ nghĩa duy tâm khách quan như phương Tây, cũng khác với trường phái biện chứng duy tâm chủ quan. Nếu xét ở vấn đề cơ bản của triết học, thì “hơi ngả về duy tâm” - Và thực tiễn lịch sử cho thấy, khuynh hướng này có giá trị nhất định trong lịch sử triết học với ý nghĩa là khoa học về con người, về tư duy...

Vấn đề rút ra là từ hai cách tiếp cận trong lịch sử phép biện chứng, có thể tích hợp, kết hợp cả hai khuynh hướng này trong xây dựng cơ sở lý luận để ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống hiện nay. Bởi vì, cần kết hợp giữa cải tạo hoàn cảnh, cải tạo xã hội để cải tạo con người với tự phê bình, tự cải tạo, tự tu dưỡng, tu thân để cải tạo con người, tiến tới cải tạo xã hội. Không thể chỉ nhấn mạnh mặt này mà coi nhẹ mặt kia.

2. Tiền đề lý luận thứ hai: Quan niệm của C. Mác về sự tha hóa

Phạm trù “tha hóa” được C. Mác trình bày lần đầu tiên và khá tập trung trong tác phẩm Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844. Đây không phải là tác phẩm hoàn chỉnh, được thể hiện dưới dạng bản thảo có tên “Lao động bị tha hóa” dài khoảng 20 trang. Là một trong những tác phẩm điển hình cho giai đoạn hình thành và phát triển phép biện chứng duy vật mácxít. “Tha hóa” trong triết học tức là nó biến thành cái khác và phải là một cái gì xa lạ, đối lập với cái ban đầu, tức là nó tự đánh mất bản chất và biến thành một bản chất đối lập. Phạm trù “tha hóa” được C. Mác xem xét trong các mối quan hệ: giữa công nhân và tư sản; giữa người lao động với lĩnh vực lao động trong điều kiện của chế độ tư hữu và giữa người làm ra vật phẩm (hàng hóa) với sự thống trị của thế giới vật phẩm (hàng hóa). Theo C. Mác, tha hóa trong lao động với những biểu hiện của nó, chính là sự tha hóa bản chất của con người. Lao động thuộc lĩnh vực bản chất người, của con người, lao động này chỉ khi nào con người làm chủ được, là nhu cầu tự biểu hiện được, thì lao động ấy mới phản ánh bản chất người một cách thuận chiều, phù hợp. Còn lao động trong điều kiện chế độ tư hữu thì nó ở ngoài con người, đây chính là quá trình tha hóa của lao động. Nó đặt con người trong tình trạng nô dịch, xa lạ, đối địch. Sản phẩm làm ra bởi lao động của công nhân cuối cùng lại không nằm trong tay công nhân, nó là của người khác, nên nó vô hình trung quay lại thống trị người công nhân, cho nên sản phẩm càng nhiều, anh ta càng ít đi chất người, sản phẩm càng đẹp thì anh ta càng trở nên thô lỗ, giá trị con người ngày càng giảm đi, cuối cùng con người bị “vật thể hóa”. Về bản chất, “sự chiếm hữu xuất hiện ra là sự tha hóa, sự nhượng đi”. Từ đó, C. Mác kết luận: “Xuất phát từ quan hệ của lao động bị tha hóa với sở hữu tư nhân, còn có thể có kết luận thêm rằng sự giải phóng xã hội khỏi sở hữu tư nhân, v.v., khỏi sự nô dịch, trở thành hình thức chính trị của sự giải phóng công nhân... bao hàm sự giải phóng toàn diện toàn thể người”[1].

Vấn đề rút ra là:

- Đây là những phác thảo đầu tiên trong giai đoạn đầu hình thành chủ nghĩa Mác, tuy còn chịu ảnh hưởng của tư tưởng và cách diễn đạt Hêghen và Phoiơbắc, nhưng khác với “sự tha hóa của ý niệm tuyệt đối” của Hêghen và “sự tha hóa có tính tộc loại” của Phoiơbắc, C. Mác đi vào nghiên cứu thực tiễn đời sống xã hội, thực tiễn lao động sản xuất để tìm ra căn nguyên của sự tha hóa người lao động. Sau này, trong các tác phẩm Gia đình thần thánh, Sự khốn cùng của triết học, Hệ tư tưởng Đức, nhất là Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, vấn đề “tha hóa” được đề cập rõ ràng hơn về bản chất, căn nguyên, các biện pháp khắc phục. Điều đó khẳng định về phương pháp luận là, vấn đề suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tự diễn biến, tự chuyển hóa nằm ở trong đời sống hiện thực, chủ yếu ở lĩnh vực kinh tế, khi nước ta còn đang tồn tại nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Cán bộ, đảng viên dù xuất thân từ thành phần nào, hoàn cảnh nào, nếu tự nguyện đi theo Đảng thì phải gột rửa “những vết tích xấu xa của xã hội cũ”[2] như Hồ Chí Minh đã nói.

- Khẳng định chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là nguồn gốc của sự suy thoái đạo đức xã hội, nhất định cần phải được thay thế bởi chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Đây là một tất yếu thép bảo đảm sự giải phóng con người triệt để, xây dựng con người phát triển toàn diện. Đây cũng là niềm tin khoa học, lý tưởng chính trị và đạo đức của chúng ta. Tuy rằng đó còn là một chặng đường dài phía trước của nhân loại.

3. Tiền đề lý luận thứ ba: Mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội

Tồn tại xã hội là sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, bao gồm: Phương thức sản xuất (lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất); điều kiện tự nhiên - hoàn cảnh địa lý; dân số và mật độ dân số... trong đó, phương thức sản xuất vật chất là yếu tố cơ bản nhất. Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm: những tư tưởng, quan điểm cùng những tình cảm, tâm trạng, truyền thống... của cộng đồng xã hội, nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định. Cần phân biệt ý thức xã hội với ý thức cá nhân; ý thức xã hội thông thường và ý thức lý luận; tâm lý xã hội và hệ tư tưởng.

Điểm cần nhấn mạnh ở đây là: Ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết định. Nhưng ý thức xã hội có tính độc lập tương đối trong quá trình hình thành và phát triển (tính lạc hậu, tính vượt trước, tính kế thừa, sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội), có tác động tích cực trở lại tồn tại xã hội.

Vấn đề rút ra là:

- Muốn ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống... phải dựa vào các điều kiện vật chất hiện thực ở nước ta như: đặc điểm, tính chất, trình độ phát triển của nền sản xuất; truyền thống văn hóa dân tộc. Ví dụ, đặc điểm nước ta “từ nền sản xuất nhỏ là phổ biến tiến lên chủ nghĩa xã hội”, “trong điều kiện các yếu tố kinh tế thị trường chưa phát triển đầy đủ” hoặc “Lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội còn một số vấn đề cần phải qua tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận để tiếp tục làm rõ”[3]... chi phối rất lớn đến tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Nó cho thấy đây là cuộc đấu tranh lâu dài, thường xuyên, phức tạp, quyết liệt trên lĩnh vực tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống khi các điều kiện vật chất hiện thực chưa đầy đủ, chưa chín muồi.

- Tuy nhiên, vẫn có thể đưa công tác tư tưởng (để ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức) lên hàng đầu; coi trọng giáo dục, tuyên truyền... trong khi các điều kiện vật chất chưa có, chưa đầy đủ, là do: tính tiên phong (vượt trước) của tư tưởng khoa học, sự tác động lẫn nhau, tính độc lập tương đối và sự tác động tích cực trở lại của tư tưởng chính trị, đạo đức để có niềm tin vào sự thắng lợi của cuộc đấu tranh này ở nước ta hiện nay.

- Hình thái ý thức chính trị rất phức tạp, xuất hiện trong xã hội có giai cấp và nhà nước, phản ánh những mối quan hệ chính trị, kinh tế, xã hội giữa các giai cấp, các dân tộc, các quốc gia, cũng như thái độ của các giai cấp đối với quyền lực nhà nước. Hệ tư tưởng chính trị của một giai cấp nhất định phản ánh trực tiếp, tập trung lợi ích giai cấp (biểu hiện tập trung là lợi ích kinh tế). Hệ tư tưởng chính trị được thể hiện trong đường lối, cương lĩnh chính trị, cũng như luật pháp, chính sách của nhà nước (công cụ của giai cấp thống trị). Hệ tư tưởng chính trị được hình thành một cách tự giác, gắn với các chính đảng, tổ chức chính trị, có tác động tích cực đến mức “có thể, trong những giới hạn nhất định, thay đổi cả cơ sở kinh tế” như V.I. Lênin đã chỉ ra. Nếu tích cực, khi hệ tư tưởng chính trị là của giai cấp tiến bộ, cách mạng và có tác động tiêu cực, phá hoại nếu đó là hệ tư tưởng chính trị của giai cấp lỗi thời, phản động.

- Hình thái đạo đức có tính khác biệt ở chỗ điều chỉnh nhận thức và hành vi con người từ rất sớm, khi xã hội chưa có giai cấp, chưa có những giá trị đạo đức mang tính toàn nhân loại. Đạo đức phát triển không tách rời sự phát triển xã hội, dưới dạng các nguyên tắc, quy tắc, điều chỉnh bằng dư luận xã hội. Tuy nhiên, khi xã hội có giai cấp, thì đạo đức mang tính giai cấp sâu sắc, luôn là đạo đức của một giai cấp. Nó biện hộ cho sự thống trị (hay bị trị) của giai cấp trong xã hội. Không thể là người theo đuổi mục tiêu, lý tưởng chính trị là chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản lại không có đạo đức cộng sản (đạo đức cách mạng) và ngược lại, không thể tự nhận mình là người có đạo đức cộng sản (đạo đức cách mạng) lại từ bỏ mục tiêu, lý tưởng cộng sản. Điều này cho thấy, khác với các hình thái ý thức pháp quyền, tôn giáo, khoa học, giữa hình thái ý thức chính trị và đạo đức có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Tuy nhiên, xét ở tính chất phản ánh tồn tại xã hội, nếu hình thái ý thức chính trị “là biểu hiện tập trung của kinh tế”, phản ánh trực tiếp thực tại xã hội thì hình thái ý thức đạo đức lại phản ánh thực tại xã hội xa hơn, gián tiếp hơn và chịu sự tác động (thông qua) các hình thái ý thức khác (tôn giáo, khoa học, pháp quyền...). Vì vậy, tính độc lập tương đối của đạo đức khác biệt hơn thể hiện ở tính lạc hậu và bảo thủ mạnh hơn, do đó, cải tạo đạo đức cho tương thích với thực tại xã hội khó khăn và lâu dài hơn.

- Khái niệm “tư tưởng chính trị”, “đạo đức”, “lối sống” dùng trong văn kiện Đảng ta thực ra là những khái niệm không đồng loại (cùng cấp, bậc) xét về mặt học thuật. Hình thái ý thức chính trị bao gồm: Hệ tư tưởng chính trị và tâm lý, tình cảm chính trị. Tương tự, hình thái ý thức đạo đức bao gồm: Hệ tư tưởng đạo đức và tình cảm đạo đức. “Lối sống” là tổng hợp giữa tri thức, tình cảm và hành vi đạo đức; là hiện thực hóa về mặt nhân cách, trong đó nổi bật là phong cách, tác phong của một cá nhân, một cộng đồng trong sự chi phối về văn hóa, phong tục tập quán nhất định. Nghiên cứu khoa học là cách tiếp cận hệ thống và tổng thể, cần chú ý không chỉ mối quan hệ nhân quả giữa ba khái niệm này, mà còn chú ý mối quan hệ trong một hình thái ý thức: Giữa tình cảm (chính trị, đạo đức) với hệ tư tưởng (chính trị, đạo đức) với hành vi (chính trị, đạo đức, lối sống).

Tuy nhiên, việc Đảng ta nhấn mạnh các khái niệm này (tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống) là từ thực tiễn chính trị đòi hỏi. Trong xây dựng và chỉnh đốn Đảng, vấn đề suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống là rất đáng lo ngại, giữ vị trí nổi bật hiện nay. Nếu không đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng này thì sẽ làm suy thoái bản chất cách mạng của Đảng, vì đây là những thuộc tính cơ bản quy định bản chất của Đảng ta.

4. Tiền đề lý luận thứ tư: Mối quan hệ giữa “lượng” và “chất”

Nắm bắt và vận dụng quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại, cần hiểu một số vấn đề sau:

- “Chất” là phạm trù triết học chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng. Là sự tổng hợp những thuộc tính, đặc trưng... làm cho sự vật là nó chứ không phải là cái khác. “Lượng” là phạm trù triết học chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng, biểu thị ở con số các thuộc tính, tổng số các bộ phận, đại lượng, trình độ, quy mô, cấu trúc... của sự vận động, phát triển của nó:

+ Không có “chất” thuần túy, “chất” bao giờ cũng gắn với “lượng”, là tổng hợp các thuộc tính. Sự phân biệt giữa “chất” và “lượng” chỉ là tương đối. “Chất” biểu hiện tính thống nhất, toàn vẹn, tình trạng tương đối ổn định của sự vật, hiện tượng.

+ “Lượng” cũng khách quan như “chất” vì nó gắn liền với “chất”: “chất” bao giờ cũng có “lượng” của nó, thông qua “lượng” người ta biết được “chất”. Vai trò của “lượng” trong quy định về “chất” không giống nhau: có “lượng” cơ bản, có “lượng” không cơ bản; có “lượng” cụ thể, có “lượng” trừu tượng; có “lượng” bên trong, có “lượng” bên ngoài... Sự phân biệt giữa “chất” và “lượng” chỉ là tương đối, tùy từng mối quan hệ, tránh siêu hình.

- Nội dung: Bất kỳ sự vật hiện tượng nào cũng là sự thống nhất giữa “chất” và “lượng”. Sự thay đổi dần dần về “lượng” vượt giới hạn của “độ” sẽ dẫn tới sự thay đổi về “chất” thông qua “bước nhảy”. “Chất” mới ra đời sẽ tác động tới sự thay đổi của “lượng”.

+ Sự thay đổi (quá trình vận động phát triển) của sự vật, hiện tượng bao giờ cũng đi từ (bắt đầu) sự thay đổi về “lượng” dẫn tới thay đổi về “chất”. “Chất” mới ra đời có sự tác động tới sự thay đổi của “lượng”.

+ Cần nắm chắc một số khái niệm:

“Độ” là phạm trù triết học chỉ khoảng giới hạn trong đó sự thay đổi về “lượng” chưa làm thay đổi căn bản về “chất”.

“Điểm nút” là phạm trù triết học chỉ thời điểm mà tại đó, sự thay đổi về “lượng” đã đủ làm thay đổi về “chất” của sự vật, hiện tượng.

“Bước nhảy” là phạm trù triết học chỉ sự chuyển hóa về “chất” do sự thay đổi về “lượng” gây nên.

Vấn đề rút ra là:

- Trước hết phải minh định rõ nội hàm của “chất” và “lượng” trong “tư tưởng chính trị”, “đạo đức” và “lối sống”. Tức là những thuộc tính, đặc trưng, tiêu chuẩn... cấu thành nên chất của “tư tưởng chính trị”, “đạo đức” và “lối sống”. Trong đó, chú ý những thuộc tính, đặc trưng, tiêu chuẩn... (lượng) cơ bản, bên trong, vì khi thay đổi những lượng này sẽ đẩy nhanh sự thay đổi về “chất” của “tư tưởng chính trị”, “đạo đức” và “lối sống”. Hiện nay, có tình trạng xây dựng tiêu chuẩn cán bộ, tiêu chuẩn đảng viên còn quá chung chung: “có tinh thần yêu nước”, “có bản lĩnh chính trị vững vàng...” và chung cho mọi đối tượng: Chưa phân biệt giữa một bí thư cấp ủy với một đảng viên; giữa một cán bộ cấp cao với một công chức. Việc cụ thể hóa các tiêu chuẩn này, cũng như cụ thể hóa đối với từng loại cán bộ, đảng viên là mang tính cấp bách hiện nay.

- Hiểu “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” không phải là thuộc tính vốn có của sự vận động phát triển nói chung, mà theo nghĩa là sự vận động theo xu hướng thoái bộ, tiêu cực, phản phát triển. Chúng ta không thể loại bỏ sự vận động các “lực lượng bản chất của con người” cán bộ, đảng viên mà chúng ta quản lý được quá trình vận động đó, về lý luận, là bằng cách tìm ra mâu thuẫn của tự diễn biến (nguồn gốc, động lực), phương thức “tự diễn biến” (lượng đổi - chất đổi) và hình thức của “tự diễn biến” (qua các sự phủ định). Nói một cách cụ thể là, phải kiểm soát được những diễn biến về nhận thức, tư tưởng, hành vi của cán bộ, đảng viên thông qua hệ thống các quy định trong Điều lệ Đảng, pháp luật và những quy định về đạo đức cán bộ, đảng viên. Bên cạnh việc đề cao tinh thần tự giác, tự tu dưỡng, rèn luyện của mỗi cán bộ, đảng viên, thì việc định hướng, kiểm soát, quản lý “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đặt ra vai trò đặc biệt quan trọng của tập thể lãnh đạo, cấp ủy và người đứng đầu hiện nay.

- Cần nhận thức đúng “độ” trong chuyển hóa giữa “lượng” và “chất”. Có thể hiểu, những quy định của Đảng như: về công tác kiểm tra của tổ chức đảng đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên (Quy định số 55-QĐ/TW ngày 10-01-2012 của Ban Bí thư Trung ương Đảng); quy định về những điều đảng viên không được làm (Quy định số 47-QĐ/TW ngày 01-11-2011 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng); về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt các cấp (Quy định số 101-QĐ/TW ngày 7-6-2012 của Ban Bí thư Trung ương Đảng); về việc lấy phiếu tín nhiệm hằng năm đối với thành viên lãnh đạo cấp ủy và cán bộ lãnh đạo trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội (Quy định số 101-QĐ/TW ngày 7-6-2012); Quy định số 165-QĐ/TW ngày 18-2-2013 của Bộ Chính trị); về trách nhiệm người đứng đầu; về nhiệm vụ của đảng viên... đã tạo thành một “độ” bảo đảm các điều kiện đánh giá mức độ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” như thế nào, nếu vượt qua “độ” đó, là suy thoái.

5. Tiền đề thứ năm: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng

Trong số những lãnh tụ của giai cấp công nhân, của các chính đảng công nhân, Hồ Chí Minh là người đặc biệt quan tâm, đề cập và thực hành nhiều về đạo đức vô sản (đạo đức cách mạng). Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, định hướng xây dựng Đảng ta thật sự trở thành một đảng “cách mạng”, “chân chính”, “đạo đức, văn minh”, làm cho Đảng vững mạnh, lãnh đạo cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, được Nhân dân tin yêu, trìu mến gọi là “Đảng ta”. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức là một hệ thống những quan điểm về nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực, phẩm chất đạo đức mới (đạo đức cách mạng) trên cơ sở kế thừa những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc và nhân loại tiến bộ. Có thể khái quát những nội dung, đặc điểm cơ bản sau:

- Kế thừa những giá trị đạo đức của dân tộc và nâng lên một tầm cao mới của chủ nghĩa Mác - Lênin về đạo đức cộng sản.

- Kế thừa những giá trị đạo đức phương Đông và phương Tây vận dụng vào điều kiện cụ thể nước ta.

- Định hình một hệ thống đạo đức cách mạng về các nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực đạo đức mới trong sự kết hợp chặt chẽ với chính trị, pháp quyền và văn hóa:

+ Đó là sự kết hợp giữa lý tưởng chính trị với lý tưởng đạo đức trong chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh “xây dựng một Chính phủ liêm khiết”, “thực hành một chính trị nhân nghĩa”;

+ Sự thống nhất giữa tư tưởng đạo đức, tình cảm đạo đức với thực hành đạo đức, nêu gương đạo đức, có tiêu chuẩn đạo đức cụ thể đối với từng loại cán bộ, đảng viên;

+ Sự thống nhất giữa pháp quyền với đạo đức, giữa đạo đức với văn hóa trong tư cách, tiêu chuẩn người cán bộ, đảng viên;

+ Giải quyết tốt mối quan hệ giữa “đức” và “tài”, trong đó, “đức” làm gốc.

Vấn đề rút ra là:

- Có thể xây dựng được đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân đi trước một bước so với điều kiện kinh tế - xã hội. “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải có con người xã hội chủ nghĩa”[4].

- Chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, trước hết phải tập trung vào phòng, chống suy thoái về đạo đức cách mạng, vì “đức là gốc”, là phẩm hạnh của con người, nó thẩm thấu, xuyên suốt, chi phối trong nhận thức và hành vi con người. Lý tưởng chính trị giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột, bất công xã hội đồng nghĩa với sự phát triển hoàn bị chủ nghĩa nhân văn, nhân đạo cộng sản. Những kẻ “giả danh cộng sản” chính là những kẻ “đạo đức giả”. Hồ Chí Minh đã cảnh báo: Đừng tưởng cứ viết lên trán hai chữ cộng sản mà được người dân yêu mến, tin tưởng.

- Phải coi trọng giáo dục đạo đức cách mạng đồng thời với kiên quyết đấu tranh chống lại mọi biểu hiện của đạo đức phong kiến, tiểu tư sản, tư sản, tập trung nhất ở chủ nghĩa cá nhân, “căn bệnh gốc”, “nguồn gốc”, “nguyên nhân” của mọi biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống hiện nay.

- Không phải nói đạo đức chung chung mà phải thể hiện qua các hành vi đạo đức thiết thực, cụ thể, bằng sự gương mẫu, noi gương của mỗi cán bộ, đảng viên trước Nhân dân. Đồng thời với tăng cường kỷ luật, kỷ cương; kết hợp tự phê bình và phê bình với nghiêm khắc xử phạt khi vi phạm pháp luật.

- Điểm đặc biệt, trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh có hai vấn đề mang tính phương pháp luận:

+ Hồ Chí Minh quan niệm: “Ngủ thì ai cũng như lương thiện/ Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ, hiền/Hiền, dữ đâu phải là tính sẵn/ Phần nhiều do giáo dục mà nên”[5]. Hồ Chí Minh quan niệm phân biệt đạo đức phải qua hoạt động thực tiễn mới biết thiện, ác; phải, trái... Đạo đức chủ yếu là do giáo dục. Như vậy, con người ta sinh ra “mang tính thiện: “nhân chi sơ tính bản thiện”, sau đó xã hội làm cho tính thiện tha hóa mà thành ác (phái Khổng, Mạnh) hoặc con người sinh ra đã “mang tính ác” nên cần đề cao pháp luật (phái Pháp gia).

+ Hồ Chí Minh cho rằng đánh giá đạo đức thông qua các mối quan hệ cơ bản, cụ thể: đối với Đảng, đối với Nhân dân, đối với công việc, đối với đồng nghiệp, đối với người thân và đối với bản thân. Không chung chung, trừu tượng.

II- Một số đề xuất, kiến nghị

1. Đổi mới, hoàn chỉnh các quy định của Đảng, Hiến pháp, pháp luật, cơ chế, chính sách

Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, trong các giai đoạn suy tàn của các triều đại phong kiến, hình thành nên vấn đề có tính quy luật “Lễ không xuống đến thứ Dân, hình phạt không đến Quan”, xử phạt kiểu “trên nhẹ, dưới nặng”, trên thì sống hoang tàn, vô độ, dưới thì khổ ải, lầm than, nghiêm khắc. Vì vậy mới có thành ngữ: “Nhà dột từ nóc dột xuống”; “Thượng bất chính hạ tắc loạn”.

Hiện nay, xét về hệ thống pháp luật, Điều lệ Đảng chưa phủ kín “khuôn khổ pháp lý” để phòng, chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, vẫn còn “khoảng trống”. Trong Hiến pháp 2013, mục 2, Điều 4 ghi: “Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình”[6] và mục 3, Điều 4 ghi: “Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”2. Nhưng hiện nay những điều này chưa được cụ thể hóa.

Trong Điều lệ Đảng (thông qua tại Đại hội XI của Đảng ngày 19-1-2011), có 12 chương với 48 điều, chưa có điều nào nói về các quy định có tính chất chế tài đối với người đứng đầu cấp ủy các cấp, trong trường hợp vi phạm pháp luật, Điều lệ Đảng. Tại sao các bộ trưởng phải trả lời chất vấn trước Quốc hội công khai, nhưng Trưởng các Ban Đảng sao không trả lời chất vấn trong Đảng, ở đâu, khi nào, những vấn đề gì, mặc dù đã có Quy chế chất vấn trong Đảng theo Quyết định số 158-QĐ/TW ngày 12-5-2008 của Bộ Chính trị, nhưng chỉ áp dụng từ cấp tỉnh trở xuống? Hồ Chí Minh, người đứng đầu Đảng, Nhà nước đã công khai xin nhận lỗi lầm trong cải cách ruộng đất trước toàn Đảng, toàn dân giữa khi cuộc cách mạng nước ta ở thời điểm cam go nhất. Nếu Đảng ta không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của Nhân dân, dân tộc, gắn bó mật thiết với Nhân dân, Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, thì về cơ bản các hoạt động của Đảng cần phát huy dân chủ, công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trước Nhân dân. Điều này cũng cho thấy sự hợp lý và cần thiết phải sáp nhập các cơ quan đảng và nhà nước có chức năng, nhiệm vụ tương đồng: Tổng Bí thư với Chủ tịch nước, Ban Tổ chức với Bộ Nội vụ, Cơ quan Ủy ban Kiểm tra với Thanh tra, Ban Tuyên giáo với Bộ Thông tin - Truyền thông... để thực hiện chất vấn trước Quốc hội - cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

2. Coi trọng giáo dục chính trị, đạo đức, nâng cao nhận thức

Thời phong kiến, việc thi cử tuyển chọn quan lại chỉ tập trung vào Tứ thư và Ngũ kinh tạo thành chín bộ kinh điển của nền học vấn phong kiến. Sự học của Nho giáo có nhiều ý tưởng cao siêu, nhưng quy tụ vào: Chú trọng ở luân thường đạo lý, chủ trương biến hóa tùy thời, sự vụ thực tế, nên không bàn đến những việc viển vông ngoài đời sống con người, như Khổng Tử viết: “Chuyện Người chưa biết làm sao bàn đến chuyện Trời”. Hiện nay, cán bộ ta học quá nhiều nhưng không chú trọng cái cơ bản, cụ thể, thiết thực. Chẳng hạn, quan lại xưa học Kinh Lễ là một bắt buộc để biết cách ứng xử cho đúng, từ ăn mặc, đi đứng, ngồi, đều có phép tắc quy định. Hiện nay, giáo dục đạo đức trong hệ thống các trường phổ thông, đại học còn hạn chế; không có chương trình dạy học đạo đức cho cán bộ; các quy định đạo đức nghề nghiệp, đạo đức công vụ chưa được chú ý giám sát, thực hành và không đưa vào như một tiêu chí đánh giá cán bộ, đảng viên (trong khi phân loại đánh giá cán bộ, đảng viên lại theo mẫu khác). Vì vậy, cần có chương trình dạy học đạo đức đối với cán bộ, đảng viên từ chuyên viên đến cao cấp. Thực hiện có hiệu quả, thực chất Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI và XII) về xây dựng và chỉnh đốn Đảng gắn với Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

3. Tăng cường quản lý chặt chẽ cán bộ, đảng viên về mọi mặt

Trong công tác quản lý cán bộ, đảng viên có nhiều nội dung để phòng chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Quan trọng nhất là quản lý phải trực tiếp, chặt chẽ, thường xuyên, “trị Đảng nghiêm minh”; xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực một cách hiệu quả, theo nguyên tắc quyền hạn đến đâu trách nhiệm đến đó. Phân định rõ thẩm quyền, trách nhiệm giữa tập thể và cá nhân trong thực thi nhiệm vụ; có chế tài xử lý nghiêm minh các vi phạm. Xây dựng đồng bộ, cụ thể cơ sở pháp lý để “không dám tham nhũng”, “không thể tham nhũng”; loại bỏ triệt để cơ chế xin - cho. Hoàn thiện các văn bản pháp lý về quản lý, điều hành bảo đảm công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình để góp phần hạn chế tham nhũng, lãng phí, lợi ích nhóm. Đặc biệt tập trung vào các lĩnh vực dễ phát sinh tiêu cực: quản lý đất đai, công tác cán bộ, phân bổ ngân sách, đầu tư cơ bản... Thực hiện nghiêm việc kê khai tài sản, thu nhập cá nhân; tăng cường sử dụng chi tiêu qua tài khoản, hạn chế tiền mặt. Thực hiện tốt cải cách hành chính, thủ tục hành chính; tăng cường chính quyền điện tử; khoán kinh phí hoạt động. Tổ chức thi tuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý. Đặc biệt, quy định rõ chế độ sử dụng xe công, công tác phí, các hình thức giao lưu, lễ kỷ niệm, tham quan, việc tang, cưới hỏi, xóa bỏ các chế độ, phụ cấp có tính đặc quyền, đặc lợi, tiền tệ hóa bằng lương...

Tăng cường công tác quản lý đảng viên về tư tưởng chính trị nội bộ, kết quả thực hiện nhiệm vụ, phong cách, lối sống, hoàn cảnh gia đình, điều kiện sinh hoạt. Duy trì nghiêm quy định đảng viên tham gia sinh hoạt chi bộ và tự kiểm điểm về ưu điểm, khuyết điểm trong thực hiện nhiệm vụ được giao. Những đảng viên có vi phạm, có đơn, thư tố giác phải được nhắc nhở, phê bình, xử lý kịp thời. Tăng cường đối thoại với Nhân dân và duy trì nghiêm chế độ lấy phiếu tín nhiệm, chế độ chất vấn trong Đảng.

4. Sắp xếp lại bộ máy, tinh giản biên chế

Tập trung vào xây dựng tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí đánh giá, vị trí việc làm, coi trọng sản phẩm đầu ra... Sao cho bộ máy thực sự hạn chế các tổ chức trung gian, không chồng lấn, chồng chéo, rõ trách nhiệm, kiểm soát lẫn nhau, hiệu lực, hiệu quả. Chuyển dần sang mô hình chức việc (vị trí việc làm), đề cao đội ngũ cán bộ tham mưu, chuyên gia, có tay nghề cao bằng chế độ, chính sách đãi ngộ tương xứng. Tăng cường tính chuyên nghiệp, giảm khâu phục vụ, hành chính trong bộ máy. Tập trung vào tham mưu chiến lược, quản lý nhà nước, chuyển các dịch vụ công sang tự hạch toán, tự chủ về biên chế, trang bị...

5. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát

Nên thực hiện đại hội Đảng bầu trực tiếp ủy ban kiểm tra các cấp. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát định kỳ hoặc đột xuất, theo chuyên đề. Coi trọng tự thanh tra, kiểm tra, giám sát nội bộ để phát hiện, phòng ngừa, ngăn chặn từ xa, từ sớm. Phát huy vai trò giám sát, phản biện của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Cụ thể hóa các hình thức nhân dân tham gia xây dựng Đảng, giám sát hoạt động của chính quyền, của cán bộ, đảng viên bằng dân chủ trực tiếp. Xây dựng và thực hiện các cơ chế khuyến khích, bảo vệ các tổ chức và cá nhân phát hiện, tố cáo tham nhũng, tiêu cực.

TS. Lê Quang Hoan
Phó Tổng biên tập Tạp chí Xây dựng Đảng
Bài viết trích trong cuốn Cơ sở khoa học về ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ở Việt Nam do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản

Chú thích:

[1]. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.42, tr.143.

[2]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.602.

[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.67.

[4]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.11.

[5]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.413.

[6], 2. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2013, tr.9, 10.

Bình luận