Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn: Thực trạng, những vấn đề đặt ra và giải pháp
Công tác lý luận của Đảng gồm nhiều nội dung, trong đó nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn là những nội dung chủ yếu, có quan hệ chặt chẽ với nhau. Nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn là cơ sở cho việc xây dựng, phát triển lý luận, cơ sở cho công tác tuyên truyền, giáo dục lý luận, đấu tranh tư tưởng - lý luận. Từ đó, góp phần nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về nền tảng tư tưởng của Đảng, về lý tưởng, đường lối cách mạng của Đảng cũng như chính sách, pháp luật của Nhà nước để thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn - thực trạng và nguyên nhân
Trong những năm đổi mới, các văn kiện Đại hội Đảng và nhiều nghị quyết chuyên đề của Ban Chấp hành Trung ương (như Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa IX, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa X) và các nghị quyết của Bộ Chính trị (Nghị quyết số 01-NQ/TW, ngày 28-3-1992, của Bộ Chính trị khóa VII; Nghị quyết số 37-NQ/TW, ngày 9-10-2014, của Bộ Chính trị khóa XI) đã đánh giá công tác lý luận, xác định phương hướng, nhiệm vụ của công tác lý luận nói chung, công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn nói riêng.
Thực hiện các nghị quyết của Đảng, công tác lý luận, việc tổ chức, triển khai nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn trong thời kỳ đổi mới đã có những bước phát triển, “góp phần quan trọng trong việc cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước”.
Đặc biệt, Nghị quyết số 01-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa VII “Về công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay” đánh dấu một bước chuyển mới cả trong nhận thức về vai trò của công tác lý luận lẫn trong khâu tổ chức nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn phục vụ cho sự phát triển đất nước. Sau 20 năm thực hiện Nghị quyết số 01-NQ/TW, như Nghị quyết số 37-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XI đã nhận định: Công tác lý luận của Đảng đã đạt được những kết quả quan trọng. Tư duy lý luận tiếp tục có bước phát triển; chú trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; bổ sung, phát triển Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 2011) và Hiến pháp năm 2013; bước đầu hình thành hệ thống lý luận cơ bản về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam (về bản chất, đặc trưng của chủ nghĩa xã hội; các định hướng cơ bản xây dựng chủ nghĩa xã hội; về mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; về chiến lược bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế, về phát huy dân chủ, xây dựng hệ thống chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; xây dựng, chỉnh đốn Đảng,...). Những kết quả đó góp phần tích cực vào thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới đất nước.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, các văn kiện của Đảng cũng đã thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, yếu kém, bất cập của công tác lý luận nói chung, trong đó có việc nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn.
Văn kiện Đại hội IX của Đảng nhận định: “Công tác lý luận chưa theo kịp sự phát triển của thực tiễn và yêu cầu của cách mạng, chưa làm sáng tỏ nhiều vấn đề quan trọng trong công cuộc đổi mới để phục vụ việc hoạch định chiến lược, chủ trương, chính sách của Đảng, tăng cường sự nhất trí về chính trị, tư tưởng trong xã hội”.
Văn kiện Đại hội X nhận định: “Công tác lý luận chưa làm sáng tỏ được một số vấn đề quan trọng trong công cuộc đổi mới”.
Văn kiện Đại hội XI nhận định: “Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn chưa làm sáng tỏ được một số vấn đề về đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta”.
Tiếp theo, Văn kiện Đại hội XII cũng nhận định: “Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới”, “công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận còn bất cập, chưa làm rõ được một số vấn đề đặt ra trong quá trình đổi mới để định hướng trong thực tiễn, cung cấp cơ sở khoa học cho hoạch định đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội còn một số vấn đề cần phải qua tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận để tiếp tục làm rõ”.
Nghị quyết số 37-NQ/TW của Bộ Chính trị đã đánh giá khái quát những hạn chế, khuyết điểm của công tác lý luận là “nhìn chung, lý luận còn lạc hậu, tính dự báo thấp, kết quả nghiên cứu lý luận chưa đáp ứng tốt yêu cầu của thực tiễn”.
Như vậy, những khuyết điểm, bất cập của công tác lý luận đã được Đảng ta chỉ ra từ lâu, đã tồn tại kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ, song vẫn chưa khắc phục được một cách cơ bản. Sự lạc hậu, yếu kém của lý luận đã làm hạn chế vai trò dẫn đường, tiên phong của lý luận cũng như vai trò lãnh đạo của Đảng.
Nguyên nhân của hạn chế, khuyết điểm: bao gồm cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu.
-Về khách quan: Sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa là một sự nghiệp cách mạng vĩ đại với quy mô và tầm vóc to lớn, chưa có tiền lệ trong lịch sử và chưa có sự chuẩn bị về lý luận. Công cuộc đổi mới càng đi vào chiều sâu càng nảy sinh nhiều vấn đề mới, phức tạp, “hóc búa” về lý luận và thực tiễn không có sẵn trong di sản kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin nên không thể giải quyết ngay trong một sớm một chiều. Mặt khác, công cuộc đổi mới của nước ta diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó lường, khó đoán định. Hội nhập quốc tế của nước ta ngày càng đi vào chiều sâu, chúng ta không chỉ có thuận lợi mà còn phải đối mặt với nhiều nguy cơ, thách thức. Chúng ta có chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm cơ sở lý luận, song vẫn chưa đủ. Trong thời kỳ kháng chiến chống ngoại xâm, Đảng ta tập trung nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về chiến tranh nhân dân, về kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ nên ít có điều kiện nghiên cứu lý luận về xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ sau năm 1954 đến trước khi đổi mới năm 1986, Đảng ta cũng đã tiến hành tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về xây dựng chủ nghĩa xã hội trước tiên là ở miền Bắc sau đó là trong cả nước, đã xây dựng đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, lý luận và đường lối khi đó chịu ảnh hưởng nặng của mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu cũ, của cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp nên sang thời kỳ đổi mới, rất nhiều điểm không còn phù hợp.
-Về chủ quan, có nhiều nguyên nhân:
Thứ nhất, nhiều cấp ủy, chính quyền, cán bộ và đảng viên chưa thực sự coi trọng lý luận và công tác lý luận, chưa nhận thức đầy đủ, đúng tầm vai trò của tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận trong hoạt động lãnh đạo, quản lý.
Các văn kiện của Đảng thời kỳ đổi mới đều yêu cầu các cấp ủy đảng phải coi trọng lý luận và công tác lý luận, đổi mới tư duy lý luận, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh khi xây dựng chủ trương, chính sách, pháp luật. Tuy nhiên, trong thực tế không ít cấp ủy, chính quyền, cán bộ, đảng viên ở Trung ương và địa phương chưa thực sự coi trọng lý luận, nếu không muốn nói là xem thường lý luận. Nhiều cán bộ lãnh đạo được đi học cao cấp lý luận chính trị, nhưng nhiều người đi học với động cơ để “trang trí” cho có bằng cấp, làm điều kiện cho quy hoạch hoặc bổ nhiệm. Học lý luận mà không hiểu, không nắm được linh hồn của lý luận, không biến lý luận thành phương pháp nhận thức, phương pháp hành động, phương pháp công tác. Nhiều cán bộ còn nặng về tư duy kinh nghiệm, tầm nhìn hạn hẹp, tổ chức công việc lúng túng, thiếu bài bản, thiếu khoa học.
Còn thiếu những quy chế, quy định mang tính pháp lý để gắn kết hữu cơ việc nghiên cứu lý luận, xây dựng chủ trương, cơ chế, chính sách với tổng kết thực tiễn. Nguyên nhân sâu xa là do nhận thức không đầy đủ về mối quan hệ biện chứng giữa lý luận, cơ chế, chính sách và thực tiễn, thiếu gắn bó mật thiết giữa nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn, giữa cán bộ lý luận và cán bộ thực tiễn. Công tác chỉ đạo và tổ chức tổng kết thực tiễn trong không ít trường hợp còn hạn chế; mục tiêu, nhiệm vụ, đối tượng tổng kết nhiều khi được xác định không đầy đủ, chưa phản ánh đúng yêu cầu của thực tiễn; phương pháp tổ chức tổng kết thực tiễn nhiều khi chưa bảo đảm tính khoa học, có khi còn “xuôi chiều”, chủ yếu mang tính kiểm điểm ưu khuyết hoặc báo cáo thành tích, đánh giá không đầy đủ và sâu sắc về các mặt, nhất là về yếu kém, khuyết điểm, không chỉ ra được nguyên nhân thực sự và xu hướng biến đổi của tình hình, không làm rõ trách nhiệm của người đứng đầu, không rút ra được những vấn đề có tính lý luận, bệnh kinh nghiệm, bệnh thành tích tác động đến nhiều cuộc tổng kết thực tiễn.
Thứ hai, đổi mới tư duy lý luận chưa kiên quyết, mạnh mẽ, có mặt còn lạc hậu so với thực tiễn. Đây vừa là thực trạng, vừa là nguyên nhân của những hạn chế trong nghiên cứu lý luận và công tác lý luận nói chung.
Trước những biến đổi nhanh chóng, phức tạp của tình hình thế giới và khu vực cùng với những thay đổi của tình hình đất nước, công tác nghiên cứu lý luận bộc lộ những yếu kém, bất cập, chưa theo kịp sự phát triển của thực tiễn và yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Trong nghiên cứu lý luận, chúng ta chưa đi sâu vào những vấn đề gay cấn của thực tiễn và nhận thức, còn né tránh sự thật, nhất là những sự thật gai góc, yếu kém, khuyết điểm, lảng tránh những vấn đề nhạy cảm do sợ đụng chạm. Vì vậy, nhiều vấn đề được nghiên cứu không đến nơi đến chốn, không triệt để. Trong nghiên cứu lý luận vẫn còn tình trạng chưa mạnh dạn, thiếu bản lĩnh, chưa nói đã sợ sai với quan điểm của Đảng, vẫn còn khuôn sáo trong những lý luận đã có, trong sách vở, trong nghị quyết... Nhiều vấn đề lý luận tuy được rất nhiều đề tài cấp nhà nước, cấp bộ, ngành nghiên cứu trong những giai đoạn vừa qua nhưng kết quả nghiên cứu lại ít có cái mới thực sự, ít có những điểm đột phá, nhiều khi “xào xáo” cái cũ lại để nghiệm thu, còn trong nghiệm thu đề tài còn tình trạng nể nang, dễ dãi.
Tình trạng trên đây có phần do trách nhiệm của đội ngũ cán bộ lý luận, nhưng cũng có phần trách nhiệm trong công tác lãnh đạo của các cấp ủy đảng đối với công tác lý luận, chưa phát huy mạnh mẽ tiềm năng trí tuệ của đội ngũ này. Có thể nói, nhiều cấp ủy đảng chưa thực sự coi nghiên cứu lý luận, công tác lý luận như một công việc thiết thân của mình, gắn với sinh mệnh chính trị của Đảng, “chưa đặt đúng mức việc chỉ đạo đổi mới nội dung, phương pháp công tác tư tưởng, lý luận trong giai đoạn mới”.
Thứ ba, đội ngũ cán bộ lý luận đông nhưng không mạnh, còn ít chuyên gia lý luận đầu ngành trên các lĩnh vực. Đây là nhận định của Nghị quyết số 37-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XI.
Trong những năm đổi mới chúng ta đã đào tạo một đội ngũ đông đảo cán bộ lý luận công tác ở các học viện, viện nghiên cứu, trường đại học, các trung tâm... Đội ngũ cán bộ này nhìn chung có bản lĩnh chính trị vững vàng, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, được đào tạo về chuyên môn, tâm huyết với nghề nghiệp. Tuy nhiên, đội ngũ cán bộ lý luận còn nhiều bất cập, hẫng hụt, số cán bộ trẻ chưa thay thế được cán bộ nhiều tuổi; số cán bộ có học vị (thạc sĩ, tiến sĩ), học hàm (phó giáo sư, giáo sư) tăng lên nhưng chất lượng khoa học chưa tăng nhiều.
Nghị quyết số 01-NQ/TW, của Bộ Chính trị khóa VII về công tác lý luận nhận định: “Đội ngũ cán bộ lý luận chưa đồng bộ và nói chung trình độ chưa ngang tầm đòi hỏi của sự nghiệp cách mạng. Đặc biệt là còn rất thiếu những chuyên gia lý luận đầu đàn trên các lĩnh vực trọng yếu”. Đến nay sau hơn 25 năm, nhận định này vẫn còn đúng. Nhìn chung, đội ngũ cán bộ lý luận hiện nay còn thiếu về số lượng, yếu về chất lượng, nhất là về chuyên môn, nghiệp vụ. Lòng nhiệt tình, sự say mê nghiên cứu bị chi phối bởi nhiều nhân tố, nhất là sự tác động từ mặt trái của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Đội ngũ bị hẫng hụt, tiềm lực khoa học mỏng, hầu như chưa có cán bộ đầu đàn tầm cỡ quốc tế; trình độ ngoại ngữ yếu kém, số cán bộ có thể tự tham gia tranh luận trong các hội thảo quốc tế bằng ngoại ngữ rất hiếm, số người có thể thuyết giảng bằng ngoại ngữ lại càng hiếm hơn. Số các bài báo về khoa học xã hội được đăng trên các tạp chí quốc tế, nhất là các tạp chí thuộc diện chỉ số ISI, Scopus... gần đây có tăng lên song vẫn còn thấp so với nhiều nước trong khu vực. Trong các trường đại học, cao đẳng, số giảng viên các môn lý luận Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh chiếm tỷ lệ nhỏ (khoảng 6% trong ngành) nhưng phải đảm nhiệm một khối lượng giảng dạy lớn (khoảng hơn 10% tổng số giờ của chương trình) nên chỉ tập trung vào giảng dạy, ít có điều kiện thời gian nghiên cứu khoa học.
Số cán bộ khoa học nghỉ hưu hằng năm (khoảng 10%) nhưng thiếu nguồn cán bộ có chất lượng bổ sung thay thế (gần đây do thực hiện Nghị định của Chính phủ về kéo dài tuổi làm việc đối với các giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ trong các cơ sở giáo dục đại học nên tỷ lệ cán bộ khoa học nghỉ hưu có giảm đi). Số giảng viên có học hàm, học vị tập trung chủ yếu ở các học viện, viện nghiên cứu, các trường đại học lớn ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Ở các trường chính trị tỉnh, thành phố, lực lượng giảng viên lý luận chính trị rất mỏng, nhiều trường không có tiến sĩ, việc bổ sung lực lượng rất khó khăn.
Điều kiện làm việc, nghiên cứu của các cơ quan lý luận và cán bộ lý luận (về cơ sở vật chất, thư viện, sách báo, thông tin, về cơ chế, chính sách tài chính, về môi trường học thuật...) còn nhiều khó khăn, bất cập. Lương bổng, chế độ đãi ngộ hiện vẫn khuyến khích cán bộ đi vào con đường “thăng quan tiến chức” hơn là đi sâu vào chuyên môn, trở thành chuyên gia khoa học giỏi.
Thứ tư, phát huy dân chủ trong nghiên cứu lý luận còn hạn chế, bất cập.ÂÂÂ
Lý luận khoa học, do bản chất của nó chỉ có thể tồn tại, phát triển trong môi trường dân chủ. Dân chủ là động lực của lý luận khoa học, là “không khí” của nhà khoa học. Không có dân chủ thì không có sáng tạo, không có đột phá, không có cái mới trong nghiên cứu lý luận; khoa học lý luận sẽ cằn cỗi, xơ cứng, thiếu sức sống.
Nhận thức đúng vấn đề trên đây, Đảng ta đã sớm coi trọng việc phát huy dân chủ, tự do tư tưởng trong nghiên cứu lý luận. Trong rất nhiều nghị quyết, Đảng yêu cầu phải “tạo môi trường dân chủ thảo luận, tranh luận khoa học, khuyến khích tìm tòi, sáng tạo, phát huy trí tuệ của cá nhân và tập thể trong nghiên cứu lý luận. Khẩn trương ban hành quy chế dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị”.
Nghị quyết số 37-NQ/TW nhận định việc phát huy dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị còn có mặt hạn chế, bất cập, như vẫn còn tình trạng nhà nghiên cứu không dám nói thẳng, nói thật vì sợ bị quy chụp về quan điểm, né tránh những vấn đề gai góc, nhạy cảm, ít thảo luận, trao đổi đối thoại thẳng thắn, đôi khi nặng về minh họa cho đường lối, không phát huy tự do tư tưởng... Đây là một nguyên nhân quan trọng của sự lạc hậu, bất cập của lý luận và công tác lý luận.
Thứ năm, công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức và quản lý các hoạt động lý luận còn nhiều bất cập, như thiếu gắn bó mật thiết giữa nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn, giữa cán bộ lý luận với cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn, giữa công tác nghiên cứu lý luận với công tác giảng dạy, tuyên truyền lý luận, đấu tranh phê phán những quan điểm sai trái trong điều kiện bùng nổ thông tin, mạng in-tơ-nét, mạng xã hội...
Một số vấn đề đặt ra và giải pháp
Một số vấn đề đặt ra:
Thứ nhất, kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới, không ngừng làm giàu trí tuệ bằng tinh hoa văn hóa của nhân loại và của dân tộc.
Trung thành với chủ nghĩa Mác - Lê-nin không phải là trung thành trên câu chữ mà trung thành với bản chất khoa học và cách mạng, với linh hồn sống của nó là phép biện chứng. Bản thân sự trung thành đòi hỏi, yêu cầu nhận thức và vận dụng, phát triển sáng tạo. Kiên định nhưng phải sáng tạo, sáng tạo trên cơ sở kiên định. Cần phải khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí, cực đoan, phiến diện, bảo thủ, trì trệ trong nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương mẫu mực về vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, coi trọng việc kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Chúng ta trung thành với chủ nghĩa Mác - Lê-nin không phải theo tinh thần biệt phái, định kiến với các trào lưu tư tưởng khác. Chủ nghĩa xã hội phải hấp thu vào trong mình tất cả những tinh hoa của văn hóa nhân loại. Trước đây V. I. Lê-nin đã từng nói, người cộng sản phải biết làm giàu trí tuệ của mình bằng tri thức của nhân loại. Đặc biệt ngày nay, trong một “thế giới phẳng”, toàn cầu hóa thì việc nghiên cứu, chắt lọc, kế thừa tinh hoa của văn hóa nhân loại, kể cả của những học thuyết ngoài mác-xít, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam có ý nghĩa rất quan trọng trong nghiên cứu, phát triển lý luận, làm phong phú lý luận của chúng ta. Đừng để sự khác biệt về ý thức hệ cản trở chúng ta trong việc kế thừa những giá trị tích cực trong văn hóa của nhân loại.
Thứ hai, thực sự quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, lấy thực tiễn làm điểm xuất phát và điểm đến của nghiên cứu lý luận.
Nguyên nhân về mặt phương pháp luận của tình trạng yếu kém, bất cập trong nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn chính là sự tách rời giữa lý luận và thực tiễn. Nếu tách rời thực tiễn và tổng kết thực tiễn không bám sát thực tiễn, không theo kịp sự vận động, biến đổi của thực tiễn thì nghiên cứu lý luận sẽ rơi vào tình trạng giáo điều, sách vở, thuyết lý chung chung, dừng lại ở những công thức đã có sẵn, ít có cái mới, đột phá, lý luận thiếu sức sống, thiếu tính thuyết phục. Mặt khác, nếu xa rời lý luận, không nắm vững linh hồn sống của lý luận, thì tổng kết thực tiễn, việc đề ra các chính sách cho thực tiễn sẽ thiếu chiều sâu, không đi vào được bản chất, quy luật vận động của thực tiễn, “hồn cốt” của thực tiễn, sẽ rơi vào tình trạng mô tả bề mặt, bề nổi của đời sống thực tiễn.ÂÂÂ
Như vậy, thực tiễn và lý luận, tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận tự chúng đòi hỏi phải có nhau, giả định lẫn nhau. Tuy nhiên trong mối quan hệ đó, thực tiễn phải là điểm xuất phát và điểm đến của nghiên cứu lý luận vì thực tiễn là cơ sở và mục đích của nhận thức. Theo V. I. Lê-nin, quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận nhận thức. Hồ Chí Minh đã chỉ ra: “Lý luận là đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc tranh đấu xem xét, so sánh thật kỹ lưỡng rõ ràng, làm thành kết luận. Rồi lại đem nó chứng minh với thực tế. Đó là lý luận chân chính”. Chúng ta có lý luận Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đó là một thuận lợi rất quan trọng, song chưa đủ. Chúng ta phải thường xuyên bám sát thực tiễn, nắm bắt thực tiễn, kịp thời phát hiện những vấn đề, những mâu thuẫn, những điểm nghẽn cản trở sự phát triển; phải chú trọng nghiên cứu, phân tích, đánh giá, tổng kết thực tiễn để làm rõ các vấn đề lý luận còn chưa sáng tỏ. Không nắm bắt, bám sát, tổng kết thực tiễn, thì không thể bổ sung, phát triển lý luận, lý luận sẽ trở nên lạc hậu, xơ cứng, thiếu sức sống. Tổng kết thực tiễn phải được coi là phương pháp căn bản để bổ sung, phát triển lý luận, tìm lời giải cho lý luận. Trước đây chính các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã dạy rằng, những vấn đề đẩy lý luận vào con đường bế tắc chỉ có thể tìm thấy cách giải quyết từ trong thực tiễn.
Thứ ba, nghiên cứu, tư vấn về chính sách - khâu quan trọng để gắn kết lý luận với thực tiễn.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội, các quyết sách lãnh đạo của Đảng được cụ thể hóa thành đường lối, chính sách, pháp luật để đi vào cuộc sống. Nghiên cứu lý luận, nhất là lý luận chính trị, một mặt, nhằm cung cấp cơ sở khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách, mặt khác, qua đó phát hiện, nắm bắt được những vấn đề của đường lối, chính sách, những vướng mắc, yêu cầu của chính sách để giải quyết. Nghiên cứu lý luận chính trị nếu không gắn chặt với việc nghiên cứu, tư vấn về chính sách sẽ làm cho lý luận, một mặt, xa rời thực tiễn; mặt khác, chính sách thiếu hàm lượng lý luận, dẫn đến tình trạng “lý luận trên trời, cuộc đời dưới đất, chính sách lơ lửng giữa không trung”. Lý luận - chính sách - thực tiễn là những vòng khâu có quan hệ chặt chẽ với nhau. Lý luận muốn đi vào thực tiễn phải qua khâu nghiên cứu, tư vấn, xây dựng chính sách. Nghiên cứu chính sách là thiết kế phương thức để cho lý luận, đường lối của Đảng có thể thực hiện được trong thực tiễn. Mối quan hệ đó cần phải được thể hiện thành mối quan hệ về mặt tổ chức giữa các cơ quan nghiên cứu lý luận, tham mưu, tư vấn chính sách, hoạch định chính sách, tổ chức thực hiện.
Một số giải pháp chủ yếu:
Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác lý luận.
Như Nghị quyết số 37-NQ/TW của Bộ Chính trị đã khẳng định: “Các cơ quan lãnh đạo của Đảng phải quan tâm đặc biệt đến công tác lý luận, tổng kết thực tiễn”. Đảng phải coi công tác lý luận là công việc thiết thân đối với Đảng, tạo tiềm lực lâu dài, sức mạnh nội sinh của Đảng; phải coi xây dựng Đảng về lý luận là một nhiệm vụ quan trọng của xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng.
Nghị quyết số 37-NQ/TW cũng đã chỉ ra: Đảng lãnh đạo công tác lý luận bằng việc xác định quan điểm, phương hướng nghiên cứu; định hướng việc xây dựng các cơ quan nghiên cứu, phát triển đội ngũ cán bộ lý luận, xây dựng chính sách khuyến khích tài năng và lao động sáng tạo; giao thực hiện các chương trình, đề tài nghiên cứu; tạo điều kiện cần thiết cho hoạt động nghiên cứu lý luận. Tổ chức, thu hút cán bộ khoa học và các cơ quan khoa học tham gia tích cực vào quá trình hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.
Hai là, tiếp tục xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ lý luận, các chuyên gia đầu ngành, nâng cao trình độ, năng lực nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn cho cán bộ.
Đảng, Nhà nước cần quan tâm mạnh mẽ đến việc xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ lý luận cả về quan điểm, nhận thức; về bản lĩnh chính trị và phẩm chất đạo đức; về lãnh đạo, quản lý; về chủ trương, chính sách, cơ chế; cần có chính sách khuyến khích, đãi ngộ thích đáng, bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần của các nhà khoa học, hướng các nhà khoa học đi sâu vào chuyên môn, thành những chuyên gia giỏi.
Cần đổi mới căn bản công tác đào tạo cán bộ lý luận từ quy hoạch, chương trình, nội dung, phương pháp đến quy chế tuyển chọn, tiêu chuẩn đánh giá chất lượng, chú trọng cả nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng nhằm hình thành và phát triển đội ngũ chuyên gia giỏi, đội ngũ cán bộ đầu đàn, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có kinh nghiệm thực tiễn, có trình độ lý luận cao, giàu khả năng tư duy sáng tạo; đồng thời quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ kế cận, vừa đáp ứng những nhiệm vụ trước mắt, vừa chuẩn bị tiềm lực cho sự phát triển lâu dài trong tương lai.
Ba là, phát huy mạnh mẽ dân chủ, khuyến khích tìm tòi sáng tạo trong nghiên cứu lý luận.
Để phát huy dân chủ trong nghiên cứu lý luận, từ rất sớm (sau Đại hội VII năm 1991) Đảng ta đã chủ trương phải xây dựng quy chế dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị nói riêng, nghiên cứu khoa học xã hội nói chung. Từ đó đến nay, Đảng ta kiên trì chủ trương này. Cho đến nay, mặc dù chưa có quy chế dân chủ, song Bộ Chính trị khóa XI đã ban hành Quy định về dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị trong các cơ quan đảng, nhà nước (Quy định số 285-NQ/TW). Quy định đã ghi rõ: “Dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị là bảo đảm quyền và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân được tự do sáng tạo, độc lập suy nghĩ, kiến nghị, được tôn trọng, tiếp thu ý kiến, vận dụng, sử dụng kết quả nghiên cứu trong các hoạt động nghiên cứu lý luận chính trị, phù hợp với pháp luật hiện hành”. Mặc dù quy định mới giới hạn trong nghiên cứu lý luận chính trị trong các cơ quan đảng, nhà nước, song đây là một bước tiến trong nhận thức của Đảng, tạo cơ sở chính trị quan trọng để phát huy dân chủ, tính sáng tạo trong nghiên cứu lý luận để đóng góp vào công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Các cơ quan đảng, nhà nước có chức năng nghiên cứu lý luận chính trị, nhất là các học viện, viện nghiên cứu, trường đại học,... cần phổ biến, quán triệt quy định này đến lãnh đạo, những người làm công tác nghiên cứu, giảng dạy, tuyên truyền về lý luận chính trị nắm vững và vận dụng. Trên cơ sở quy định này có thể tiếp tục nghiên cứu để xây dựng quy chế dân chủ trong nghiên cứu khoa học xã hội với phạm vi rộng hơn và quy định chi tiết, cụ thể hơn.
Có thể coi việc phát huy mạnh mẽ dân chủ, thực hành dân chủ rộng rãi là khâu đột phá trong nghiên cứu lý luận. Dân chủ phải trở thành động lực to lớn cho khám phá, sáng tạo trong lý luận để có những phát hiện mới trong khoa học phát huy tự do tư tưởng trong nghiên cứu lý luận, đồng thời phải giữ nghiêm kỷ cương trong việc phổ biến kết quả nghiên cứu. Nghiên cứu không có vùng cấm nhưng việc giảng dạy, tuyên truyền phải theo quy định.
Bốn là, tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý hoạt động lý luận; kiện toàn hệ thống các cơ quan nghiên cứu lý luận; mở rộng hợp tác quốc tế trong công tác lý luận.
Cần nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác lý luận để đóng góp xứng đáng vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước. Cần đổi mới tất cả các khâu của công tác lý luận từ việc xác định mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu sao cho sát thực tiễn, cụ thể, thiết thực, tránh trùng lắp; xây dựng hệ thống các chương trình, đề tài nghiên cứu các cấp cho phù hợp, đổi mới việc tổ chức, triển khai nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, tăng cường tính tự chủ của các tổ chức nghiên cứu, tiếp tục đổi mới việc quản lý tài chính trong nghiên cứu khoa học, tạo thuận lợi nhất cho các nhà nghiên cứu, bảo đảm các điều kiện vật chất cho công tác nghiên cứu và ứng dụng vào thực tiễn; cần chú trọng khâu đánh giá, nghiệm thu sản phẩm nghiên cứu, bảo đảm tính khách quan, trung thực, khoa học.
Cần nghiên cứu để rà soát, sắp xếp các cơ quan khoa học (các học viện, viện nghiên cứu, trường đại học...) theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa XII, bảo đảm tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, chú ý đặc thù của khoa học.
Cần xây dựng cơ chế gắn kết giữa nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn, giữa công tác nghiên cứu lý luận và công tác đào tạo, giảng dạy lý luận, giữa cán bộ lý luận và cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn. Xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cơ quan lý luận với cơ quan tư vấn, hoạch định chính sách, cơ quan tham mưu, cơ quan chỉ đạo thực tiễn.
Cần tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế về lý luận theo hướng đa dạng hóa các hình thức hợp tác và các tổ chức hợp tác, nâng cao hiệu quả hợp tác để tiếp cận những thành tựu trí tuệ của thế giới trên nhiều lĩnh vực khác nhau, mở rộng tầm nhìn, tham khảo kinh nghiệm. Cần tăng cường nghiên cứu các trào lưu tư tưởng, các lý thuyết mới trên quan điểm khách quan và biện chứng, tiếp thu những giá trị tiến bộ. Khuyến khích các nhà khoa học Việt Nam công bố các bài viết trên các tạp chí nước ngoài, nhất là các tạp chí trong danh mục tạp chí được xếp hạng thế giới là ISI hoặc Scopus.
Cần tăng cường đưa các nhà khoa học Việt Nam ra nước ngoài học tập, bồi dưỡng, tham gia các hội thảo quốc tế, trao đổi chuyên gia, học thuật, tiếp cận thông tin, hợp tác nghiên cứu với các cơ quan khoa học nước ngoài. Cần chuẩn bị tốt về nhận thức chính trị, chuyên môn, phong cách, ngoại ngữ cho cán bộ trong hợp tác quốc tế về lý luận.
Lê Hữu Nghĩa
GS, TS, nguyên Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Theo Tạp chí Cộng sản
Bài viết liên quan | Xem tất cả
- Đồng chí Hoàng Văn Thụ với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc
- Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từ trần
- Đồng chí Nguyễn Văn Tố - Nhà lãnh đạo tài năng, học giả uyên bác của Việt Nam
- Đồng chí Hoàng Đình Giong, lãnh đạo tiền bối tiêu biểu của Đảng và cách mạng Việt Nam
- Đồng chí Đào Duy Tùng với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc
- Đồng chí Nguyễn Lương Bằng - Người chiến sĩ cộng sản mẫu mực, người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
- Xây dựng và phát triển nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, mang đậm bản sắc “Cây tre Việt Nam”
- Sách đồng hành cùng doanh nghiệp trong thời đại công nghệ số
- Đồng chí Lương Khánh Thiện - người chiến sĩ cộng sản kiên trung, trọn đời cống hiến cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc
- Kỷ niệm 116 năm Ngày sinh Tổng Bí thư Lê Duẩn (07/4/1907 - 07/4/2023): Nhà lãnh đạo kiệt xuất trọn đời vì nước, vì dân
- Đồng chí Chu Huy Mân - Người cộng sản kiên cường, nhà chính trị xuất sắc của Đảng và Quân đội nhân dân Việt Nam (17/3/1913 - 17/3/2023)
- Đồng chí Huỳnh Tấn Phát - Người cộng sản kiên trung mẫu mực