Cơ sở đánh giá năng lực của Đảng Cộng sản cầm quyền
Để góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, một trong những yêu cầu, nhiệm vụ quan trọng là phải đẩy mạnh dân chủ hóa sinh hoạt nội bộ Đảng, kết hợp với dân chủ hóa mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân; mọi hoạt động của Đảng phải đặt dưới sự kiểm tra, giám sát của nhân dân.
Sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản cầm quyền và căn cứ đánh giá
Để thực sự là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc, Đảng phải thực sự là đại biểu về danh dự, lương tâm, trí tuệ của dân tộc. Sự vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức là điều kiện cơ bản, trực tiếp, là bảo đảm chắc chắn nhất cho một phẩm chất như vậy. Điều đó giải thích vì sao Đảng ta luôn xem xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức là ba lĩnh vực hoạt động quan trọng, sống còn của Đảng trong xây dựng, phát triển, hoàn thiện bản thân mình. Song, việc hoàn thiện bản thân mình không có mục tiêu tự nó, mà cốt làm cho Đảng hoàn thành tốt vai trò lãnh đạo đất nước, đưa cả dân tộc tiến lên. Mục tiêu chung đó lại được biểu hiện khác nhau trong các hoàn cảnh, giai đoạn khác nhau - điển hình là giai đoạn lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền và giai đoạn đã trở thành người cầm quyền, lãnh đạo xây dựng toàn diện một xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa.
Đảng ta trở thành đảng cầm quyền từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Nhưng do những vấn đề của cách mạng, Đảng ta thực sự là đảng cầm quyền trên phạm vi cả nước để lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội từ sau ngày 30-4-1975.
Là đảng cầm quyền, sứ mệnh lịch sử quan trọng nhất trong lãnh đạo của Đảng là:
a - Hoạch định được đường lối đúng đắn, thể hiện đúng nhu cầu và lợi ích của nhân dân, của dân tộc;
b - Lãnh đạo xây dựng được một Nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì dân, phát huy được vai trò của Nhà nước và các thành viên trong hệ thống chính trị, làm cho Nhà nước thực sự là thiết chế bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân;
c - Xây dựng được đội ngũ cán bộ cầm quyền có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực chuyên môn - nghiệp vụ cao, có kỹ năng lãnh đạo và quản lý để làm cho đường lối đó thành hiện thực bằng sức mạnh của cả dân tộc.
Sự lãnh đạo của Đảng là để bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, làm cho nhân dân thực sự là chủ nhân đích thực của mọi quyền lực - đó là sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản cầm quyền. Mức độ thực hiện quyền dân chủ của nhân dân được xem là thước đo đánh giá năng lực lãnh đạo của Đảng. Đảng lãnh đạo làm sao để nhân dân làm chủ ngày càng tốt hơn, dân chủ của nhân dân ngày càng được mở rộng và sâu sắc hơn. Cần xem đó là căn cứ cơ bản nhất đánh giá sự trưởng thành của Đảng, đánh giá năng lực cầm quyền của Đảng.
Xét từ giác độ quyền lực của Dân đối với Đảng, cũng cần chính xác hóa quan niệm về thước đo đánh giá hiệu quả công tác xây dựng Đảng, trình độ trưởng thành của Đảng.
Hiệu quả công tác xây dựng Đảng phải được đo bằng việc nhờ công tác xây dựng Đảng được thực hiện tốt, mà Đảng thực sự là một tổ chức mở đối với mọi người dân cả theo nghĩa họ có thuận lợi hơn, dễ dàng hơn khi muốn gia nhập vào đội ngũ của Đảng; họ có thể dễ dàng hơn trong việc tiếp cận với Đảng, trong việc nắm vững tình hình tổ chức và hoạt động của Đảng, trong việc kiểm tra, giám sát Đảng của mình. Nói cách khác, thước đo đánh giá hiệu quả công tác xây dựng Đảng là ở bước tiến trong việc dân chủ hóa không chỉ sinh hoạt nội bộ Đảng, mà còn là - và trước hết là - dân chủ hóa quan hệ giữa Đảng với Dân. Đạt tới đỉnh cao của dân chủ hóa trên cả hai quan hệ đó, Đảng sẽ thực sự là biểu tượng về dân chủ - một điều kiện tiền đề không thể thiếu để dân chủ hóa toàn bộ đời sống xã hội. Đó cũng là con đường hiệu quả nhất để tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với Dân, là cách thức tốt nhất để khắc phục tình trạng quan liêu hóa của Đảng.
Vai trò của Đảng trong việc xác lập các điều kiện để Đảng hoàn thành sứ mệnh lịch sử nêu trên
Lãnh đạo xây dựng những cơ chế thích hợp để phát huy vai trò của nhân dân trong xây dựng, hoàn thiện bản thân Đảng của mình.
Từ thành quả đổi mới nhận thức về Đảng đạt được ở Đại hội X, cần thống nhất quan niệm cho rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là chính đảng của giai cấp công nhân, mà còn là đảng của nhân dân, của dân tộc Việt Nam. “Đảng ta” từ lâu đã trở thành lời cửa miệng của mọi người dân. Không dễ gì có được điều đó. Cần nâng niu, phát huy cái đó. Từ chỗ là đảng của một giai cấp tiến tới đảng của toàn dân tộc đánh dấu sự phát triển vượt bậc của Đảng. Khi đó, Đảng mạnh nhất.
Vì là đảng của nhân dân, của dân tộc, nên xây dựng Đảng cả về chính trị (trong đó có Cương lĩnh, đường lối của Đảng...), tư tưởng và tổ chức không chỉ là công việc của các tổ chức đảng và đảng viên, đó còn là quyền và là trách nhiệm của nhân dân, của cả dân tộc.
Xây dựng Đảng không có mục tiêu tự thân, mà nhằm làm cho Đảng hoàn thành tốt hơn chức trách được nhân dân giao phó, thực hiện tốt hơn quyền lực do nhân dân ủy quyền.
Lâu nay chúng ta mới chỉ nói tới nhân dân ủy quyền cho Nhà nước thực hiện một số quyền của mình mà từng người dân chưa trực tiếp thực hiện được. Xuất phát từ nhận thức mới về vai trò của Dân đối với Đảng, đã đến lúc phải khẳng định rằng, tự nó, Đảng không có quyền, mọi quyền lực mà Đảng có được là do nhân dân ủy quyền cho Đảng. Đó là quyền lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo nhân dân tiến hành những cải biến căn bản trong đời sống xã hội nhằm bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Đảng thực hiện quyền lãnh đạo do nhân dân ủy quyền cho Đảng bằng việc Đảng thay mặt nhân dân đưa ra Cương lĩnh, đường lối... cho sự phát triển đất nước; lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa các vấn đề đó thành Hiến pháp, pháp luật, kế hoạch... và lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo nhân dân thực hiện các quyết định đó của Nhà nước. Để cho sự ủy quyền đó không dẫn tới người dân bị mất quyền, nhân dân có quyền kiểm tra, giám sát việc Đảng thực hiện quyền của mình.
Để đạt yêu cầu trên, cần quy chế hóa mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân. Việc triển khai xây dựng và thực hiện quy chế này chính là phương thức để nhân dân kiểm tra hoạt động của Đảng, bảo đảm Đảng không thoán quyền của nhân dân. Điều đó giải thích vì sao ngay từ Đại hội X của mình, Đảng ta chủ trương xây dựng quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách, quyết định lớn của Đảng và việc tổ chức thực hiện, kể cả đối với công tác tổ chức và cán bộ(1).
Qua đó cho thấy:
- Chủ thể thực hiện sự giám sát và phản biện được đề cập trong quy chế này là Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân.
- Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân thực hiện giám sát và phản biện cả trong quá trình hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách, quyết định lớn của Đảng và cả trong quá trình tổ chức thực hiện các quyết định đó.
Quyền phản biện của nhân dân không chỉ được thực hiện trong quá trình hoạch định (phản biện khi còn là các dự thảo) các quyết sách chính trị, mà còn phản biện trong quá trình tổ chức thực hiện. Phản biện xã hội chỉ có ý nghĩa thực sự, khi Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân được tham gia đóng góp ý kiến, nhận xét, đánh giá, tư vấn suốt quá trình hoạch định và thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước... Giai đoạn điều chỉnh, hoàn thiện đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật qua tổ chức thực hiện như là phương thức kiểm tra tính đúng đắn của các quyết sách đó là rất quan trọng. Như vậy, việc giám sát cần được thực hiện trong suốt quá trình hoạch định và tổ chức thực hiện đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước.
Cũng cần có quan điểm tương tự khi nói về phản biện xã hội. Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân phản biện không chỉ quá trình hoạch định các quyết sách chính trị, mà cả quá trình tổ chức thực hiện, xem phương thức tổ chức thực hiện đó có hợp lý không, có dân chủ không, có phát huy được tính chủ động, sáng tạo của nhân dân không?
- Mở rộng và hoàn thiện cơ chế nhân dân giám sát cán bộ và công tác cán bộ của Đảng. Muốn vậy, các tổ chức đảng và đảng viên phải gắn bó chặt chẽ với nhân dân; lắng nghe tiếng nói của nhân dân. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa trách nhiệm đối với cấp trên và cấp dưới với trách nhiệm trước nhân dân.
Để nhân dân thực sự là chủ thể của mọi quyền lực, Đảng phải trở thành tấm gương về dân chủ trong xã hội.
Muốn vậy, Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng về mọi mặt, làm cho Đảng tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng và khoa học, tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong của Đảng; xây dựng Đảng thực sự vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức; có đạo đức cách mạng trong sáng, có tầm trí tuệ cao, có phương thức lãnh đạo khoa học, gắn bó mật thiết với nhân dân, đủ sức đoàn kết lãnh đạo toàn dân, vượt mọi khó khăn thử thách, thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới của Đảng. Nhờ vậy, Đảng vươn lên thành biểu tượng về dân chủ - nhân tố có ý nghĩa quyết định thành công của tiến trình dân chủ hóa. Khi đó, nhân dân sẽ thực sự là chủ thể của mọi quyền lực trong xã hội ta.
Xuất phát từ tình hình thực tế hiện nay, để Đảng thực sự là biểu tượng về dân chủ, cần:
- Dân chủ hóa, đổi mới mạnh mẽ quá trình hoạch định các quyết sách chính trị của Đảng. Liên quan tới vấn đề này, cần tổ chức hệ thống hỏi ý kiến nhân dân theo định kỳ và đột xuất. Để việc hỏi ý kiến đó có chất lượng, cần tạo mọi điều kiện để người dân biết đường lối, chủ trương, chính sách và trách nhiệm của cơ quan, cá nhân, cán bộ phụ trách việc đó trong việc thực hiện, kết quả đã được thực hiện.
- Xây dựng và vận hành hệ thống phản biện của Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể và nhân dân nói chung đối với đường lối, chính sách của Đảng.
- Dân chủ hóa hoạt động của Đại hội Đảng, dân chủ hóa trong sinh hoạt của Ban Chấp hành Trung ương, của Bộ Chính trị là trọng điểm. Trên cơ sở đó mà có dân chủ trong sinh hoạt của cấp ủy đảng các cấp còn lại; dân chủ trong mối quan hệ giữa các thành viên trong cấp ủy, giữa cấp ủy cấp trên với cấp ủy cấp dưới, giữa cấp ủy với đảng viên không trong cấp ủy...
Lãnh đạo xây dựng Nhà nước thực sự là thiết chế bảo đảm quyền lực của nhân dân.
Là đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo các lĩnh vực của đời sống xã hội trước hết và chủ yếu bằng Nhà nước, thông qua Nhà nước. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và phát huy hiệu lực quản lý của Nhà nước là hai mặt thống nhất. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, làm cho Nhà nước thực sự nằm trong tay nhân dân, bảo vệ và phục vụ lợi ích của nhân dân - là thước đo trình độ trưởng thành của Đảng.
Để nhân dân thực sự là chủ thể của quyền lực nhà nước, cần tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao trình độ cầm quyền của Đảng. Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội bằng Cương lĩnh, đường lối, chủ trương, chính sách, quyết định, nguyên tắc giải quyết các vấn đề quan trọng về quốc kế dân sinh; lãnh đạo bằng sự tiên phong gương mẫu của đảng viên và các tổ chức đảng; lãnh đạo bằng Nhà nước và thông qua Nhà nước; xử lý những vấn đề cụ thể nhưng có ý nghĩa chính trị quan trọng, quan hệ tới nhiều tầng lớp, những vấn đề phức tạp trong quan hệ quốc tế. Lãnh đạo tốt khâu hoạch định đường lối; quyết định nhân sự; lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa, cụ thể hóa đường lối, quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng. Tổ chức việc phối hợp và phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, tạo điều kiện cho Nhà nước hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ, bảo đảm cho nghị quyết của Đảng đi vào cuộc sống một cách đầy đủ, kịp thời. Kết hợp chặt chẽ việc lãnh đạo bằng tổ chức với lãnh đạo qua cá nhân đảng viên theo nguyên tắc tập trung dân chủ và nêu cao vai trò trách nhiệm của đảng viên là thủ trưởng.
Thước đo đánh giá tính đúng sai của đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, đối với nhân dân không phải ở chỗ Đảng có năng lực làm thay Nhà nước, làm thay nhân dân, mà ở chỗ, nhờ đổi mới đó, Nhà nước mạnh lên, làm tốt hơn chức năng vốn có của mình: là thiết chế bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện tốt hơn sự ủy quyền của nhân dân trong việc quản lý đất nước theo pháp luật; nhờ đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, quyền làm chủ của nhân dân được phát huy ngày một đầy đủ hơn, sâu sắc và phổ quát hơn, hiệu quả hơn.
Từ một số điểm vừa nêu, có thể khẳng định: Mọi hoạt động của Đảng phải đặt dưới sự kiểm tra, giám sát của nhân dân; phải đẩy mạnh dân chủ hóa sinh hoạt nội bộ Đảng kết hợp với dân chủ hóa mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân.
Theo Tạp chí Cộng sản
(1) Xem: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 35.
Bài viết liên quan | Xem tất cả
- Đồng chí Hoàng Văn Thụ với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc
- Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từ trần
- Đồng chí Nguyễn Văn Tố - Nhà lãnh đạo tài năng, học giả uyên bác của Việt Nam
- Đồng chí Hoàng Đình Giong, lãnh đạo tiền bối tiêu biểu của Đảng và cách mạng Việt Nam
- Đồng chí Đào Duy Tùng với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc
- Đồng chí Nguyễn Lương Bằng - Người chiến sĩ cộng sản mẫu mực, người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
- Xây dựng và phát triển nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, mang đậm bản sắc “Cây tre Việt Nam”
- Sách đồng hành cùng doanh nghiệp trong thời đại công nghệ số
- Đồng chí Lương Khánh Thiện - người chiến sĩ cộng sản kiên trung, trọn đời cống hiến cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc
- Kỷ niệm 116 năm Ngày sinh Tổng Bí thư Lê Duẩn (07/4/1907 - 07/4/2023): Nhà lãnh đạo kiệt xuất trọn đời vì nước, vì dân
- Đồng chí Chu Huy Mân - Người cộng sản kiên cường, nhà chính trị xuất sắc của Đảng và Quân đội nhân dân Việt Nam (17/3/1913 - 17/3/2023)
- Đồng chí Huỳnh Tấn Phát - Người cộng sản kiên trung mẫu mực