Hiến pháp 1946 với độc lập dân tộc và tự do, dân chủ của nhân dân

Ngày đăng: 26/03/2013 - 09:03

Hiến pháp 1946 là sự kết tinh những giá trị cao cả của thời đại, thể hiện rõ tư tưởng pháp quyền của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đáp ứng khát vọng độc lập dân tộc, bảo toàn lãnh thổ, bảo đảm các quyền tự do, dân chủ, xây dựng chính quyền mạnh mẽ, sáng suốt của nhân dân. Phát huy những giá trị của Hiến pháp 1946 có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.

Ky hop thu nhat QUOC HOI KHOA I

Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa I - Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau Tổng tuyển cử ngày 6-1-1946, tại Nhà hát lớn Hà Nội

1. Từ yêu sách "thần linh pháp quyền" đến Hiến pháp 1946

Hiến pháp 1946 là bản hiến pháp đầu tiên trong lịch lập hiến Việt Nam. Sự ra đời của Hiến pháp năm 1946 là thành quả của cuộc đấu tranh lâu dài mà đỉnh cao chói lọi là thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945 và sự thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, dưới ánh sáng của học thuyết cách mạng giải phóng và phát triển dân tộc vì độc lập, tự do của Hồ Chí Minh.

Từ năm 1919, trong bản Yêu sách của nhân dân An Nam, gồm tám điểm, gửi Hội nghị Vécxây, thay mặt những người Việt Nam yêu nước, Nguyễn Ái Quốc đã yêu cầu: “Cải cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách cho người bản xứ cũng được quyền hưởng những đảm bảo về mặt pháp luật như người Âu châu”1, “thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật2. Năm 1922, bản yêu sách này đã được Người chuyển thành Việt Nam yêu cầu ca, trong đó yêu cầu thứ bảy được nêu rõ là: “Bảy xin hiến pháp ban hành. Trăm đều phải có thần linh pháp quyền3. Đây thực sự là một quan điểm rất đặc sắc của Hồ Chí Minh, phản ánh cốt lõi của nhà nước dân chủ mới, nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật.

Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, trong điều kiện thù trong, giặc ngoài, đất nước lâm vào tình thế vô cùng khó khăn, nhưng với tầm nhìn chiến lược, Hồ Chí Minh vẫn chủ trương bằng mọi cách phải tổ chức tổng tuyển cử bầu Quốc hội và ban hành hiến pháp dân chủ. Chỉ một ngày sau khi tuyên bố độc lập, việc tổ chức tổng tuyển cử, xây dựng hiến pháp, tạo cơ sở pháp lý cho chính quyền nhân dân đã được Người xúc tiến triển khai. Trong phiên họp ngày 3-9-1945 của Hội đồng Chính phủ, Người chỉ rõ: “Trước ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có hiến pháp. Nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ”4.

Thực hiện Sắc lệnh số 14/SL của Chính phủ về Tổng tuyển cử, ngày 6-1-1946, cuộc bầu cử đã diễn ra thắng lợi trong toàn quốc, Chính phủ cũng đã thành lập Ủy ban dự thảo Hiến pháp theo Sắc lệnh số 34/SL ký ngày 20-9-1945. Bản Dự án Hiến pháp của Ủy ban dự thảo đã được Chính phủ thảo luận, sửa chữa, bổ sung và công bố trên báo Cứu quốc để mọi người dân tự do thảo luận, phê bình. Ủy ban nghiên cứu kế hoạch kiến thiết trực thuộc Chính phủ gồm một số trí thức, nhân sĩ, các bộ trưởng và thứ trưởng đã nghiên cứu bản Dự án Hiến pháp của Ủy ban dự thảo Hiến pháp và cũng soạn thảo một bản Dự thảo Hiến pháp đệ trình với Chính phủ. Đầu tháng 3-1946, tại kỳ họp thứ nhất, Tiểu ban Hiến pháp của Quốc hội được thành lập. Trên cơ sở bản Dự thảo Hiến pháp của Chính phủ là chủ yếu, đối chiếu với bản Dự thảo của Ủy ban nghiên cứu kế hoạch kiến thiết trực thuộc Chính phủ và tham khảo các bản hiến pháp của một số nước Âu - Mỹ,  ban Hiến pháp của Quốc hội đã soạn thảo một bản Dự án Hiến pháp mới đệ trình Quốc hội tại kỳ họp thứ hai vào cuối tháng 10, đầu tháng 11-1946. Quốc hội đã quyết định mở rộng Tiểu ban thêm 10 thành viên gồm đại biểu Quốc hội ở Nam Bộ và đại biểu các dân tộc thiểu số để hoàn chỉnh thêm bản dự án. Quốc hội đã thảo luận sôi nổi, tranh luận, bổ sung, sửa đổi một số điều và thông qua bản Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với 240 đại biểu tán thành trên tổng số 242 đại biểu dự họp. Do chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp đang lan rộng nên không thể đưa bản Hiến pháp ra trưng cầu ý dân trong toàn quốc và việc bầu Nghị viện nhân dân theo quy định của Hiến pháp cũng không tổ chức được. Bản Hiến pháp chính thức có hiệu lực từ ngày 9-11-1946, mặc dù không được công bố do điều kiện chiến tranh. Quốc hội đã biểu quyết giao cho Ban Thường trực thực hiện nhiệm vụ: liên lạc với Chính phủ để giúp ý kiến và phê bình Chính phủ; cùng Chính phủ quy định thi hành Hiến pháp; cùng Chính phủ quyết định tuyên chiến, đình chiến hoặc ký hiệp ước với nước ngoài… Với các quyết định trên, Quốc hội tiếp tục hoạt động với trách nhiệm lập hiến và lập pháp.

2. Giá trị khoa học và thực tiễn của Hiến pháp 1946

Chỉ với 7 chương, 70 điều nhưng Hiến pháp 1946 kết tinh nhiều giá trị cao cả của thời đại, thể hiện rõ tư tưởng pháp quyền của Chủ tịch Hồ Chí Minh. “Bản hiến pháp đó chưa hoàn toàn nhưng nó đã làm nên theo một hoàn cảnh thực tế. Hiến pháp đó tuyên bố với thế giới nước Việt Nam đã độc lập. Hiến pháp đó tuyên bố với thế giới biết dân tộc Việt Nam đã có đủ mọi quyền tự do. Hiến pháp đó tuyên bố với thế giới: phụ nữ Việt Nam đã được đứng ngang hàng với đàn ông để được hưởng chung mọi quyền tự do của một công dân. Hiến pháp đó đã nêu một tinh thần đoàn kết chặt chẽ giữa các dân tộc Việt Nam và một tinh thần liêm khiết, công bình của các giai cấp”5.

Quyền dân tộc thiêng liêng của nhân dân Việt Nam là độc lập, tự do, chính thể dân chủ cộng hòa, quyền lực của toàn dân, nghĩa vụ của công dân được ghi rõ trong lời nói đầu của Hiến pháp:

“Cuộc Cách mạng Tháng Tám đã giành lại chủ quyền cho đất nước, tự do cho nhân dân và lập ra nền dân chủ cộng hòa…

Nhiệm vụ của dân tộc ta trong giai đoạn này là bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân chủ”.

Hiến pháp Việt Nam xây dựng trên những nguyên tắc:

“- Đoàn kết toàn dân, không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo.

- Đảm bảo các quyền tự do dân chủ.

- Thực hiện chính quyền mạnh mẽ, sáng suốt của nhân dân”.

Căn cứ vào nhiệm vụ của dân tộc và nguyên tắc được xác định, Hiến pháp ghi rõ chính thể:

“Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”.

“Đất nước Việt Nam là một khối thống nhất Trung - Nam - Bắc không thể phân chia”.

“Cờ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nền đỏ, giữa có sao vàng năm cánh. Quốc ca là bài Tiến quân ca. Thủ đô đặt ở Hà Nội”6.

Mỗi công dân Việt Nam phải: bảo vệ Tổ quốc; tôn trọng Hiến pháp; tuân thủ pháp luật… Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa; đều bình đẳng trước pháp luật, được tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc theo tài năng và đức hạnh của mình; những quốc dân thiểu số ngoài bình đẳng về quyền lợi còn được giúp đỡ về mọi phương diện để nhanh chóng tiến kịp trình độ chung; đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện; công dân Việt Nam có quyền: tự do ngôn luận; tự do xuất bản; tự do tổ chức và hội họp; tự do tín ngưỡng; tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài; quyền tư hữu tài sản của công dân, quyền lợi các giới cần lao trí thức và chân tay được bảo đảm.

Chế độ bầu cử là phổ thông đầu phiếu; quyền tự do bỏ phiếu, trực tiếp và kín; quyền bầu cử và ứng cử; quyền bãi miễn các đại biểu đã bầu ra; quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia.

Nghị viện nhân dân là cơ quan quyền lực cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; giải quyết mọi vấn đề chung cho toàn quốc, đặt ra các pháp luật, biểu quyết ngân sách, chuẩn y các hiệp ước mà Chính phủ ký với nước ngoài…

Chính phủ Việt Nam là cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc gồm có chủ tịch nước, phó chủ tịch và nội các. nội các có thủ tướng, các bộ trưởng, thứ trưởng và có thể có phó thủ tướng.

Chủ tịch nước có quyền: thay mặt cho nước; giữ quyền tổng chỉ huy quân đội toàn quốc, chỉ định hoặc cách chức các tướng soái trong lục quân, hải quân, không quân; ký sắc lệnh bổ nhiệm thủ tướng, nhân viên nội các và nhân viên cao cấp thuộc các cơ quan Chính phủ; chủ tọa Hội đồng Chính phủ; ban bố các đạo luật đã được Nghị viện quyết định; thưởng huy chương và các bằng danh dự; đặc xá; ký hiệp ước với các nước, phái đại biểu Việt Nam đến nước ngoài và tiếp nhận đại biểu ngoại giao các nước; tuyên chiến hay đình chiến.

Chính phủ có quyền hạn: thi hành các đạo luật và quyết nghị của Nghị viện; đề nghị những dự án sắc luật ra trước Nghị viện và những dự án sắc luật ra trước Ban Thường vụ khi Nghị viện không họp được; bãi bỏ các mệnh lệnh và nghị quyết của cơ quan cấp dưới nếu cần; thi hành luật động viên và mọi phương sách cần thiết về giữ gìn đất nước; lập dự án ngân sách hằng năm.

Mặc dù chỉ được soạn thảo trong một thời gian ngắn, nhưng Hiến pháp năm 1946 thể hiện nhiều nội dung rất quan trọng, phản ánh thắng lợi của cuộc đấu tranh giải phóng vì độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam, trực tiếp là thành công của một quyết định táo bạo, độc đáo và sáng tạo về tổ chức Tổng tuyển cử bầu Quốc hội và soạn thảo Hiến pháp - nền tảng pháp quyền của chế độ dân chủ cộng hòa.

Giá trị khoa học hàng đầu và tính thực tiễn lịch sử mới của Hiến pháp là khẳng định quyền độc lập dân tộc, chủ quyền, thống nhất lãnh thổ và quyền tự do của nhân dân Việt Nam. Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm, là sản phẩm lịch sử đấu tranh oanh liệt của dân tộc Việt Nam, là "quyền trời cho" của các dân tộc trên thế giới. Đó là mục tiêu và động lực vĩ đại của dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Chế độ cộng hòa, trong đó quyền lực thuộc về nhân dân, bảo đảm quyền dân chủ tự do, bình đẳng xã hội, không phân biệt nam nữ, ưu đãi với đồng bào các tộc thiểu số, thể hiện bản chất ưu việt của chế độ mới được quy định trong Hiến pháp và các sắc lệnh của Chính phủ đã sớm được thực thi từ năm đầu của chế độ dân chủ cộng hòa trên tất cả các mặt: chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục… Mọi hoạt động của Chính phủ đều vì lợi ích tối cao của dân tộc là độc lập, tự do, hạnh phúc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định và thực hiện ý muốn duy nhất là “đem lại cho dân chúng được  tự do độc lập hoàn toàn và để cho tất cả mọi phần tử quốc dân được hưởng tự do độc lập ấy như muôn vật được hưởng ánh sáng mặt trời”7. Điều đó thể hiện rõ rệt tính chất ưu việt của chế độ dân chủ cộng hòa. Quyền dân tộc gắn liền với quyền dân chủ, tự do, bình đẳng, hạnh phúc, là mục tiêu, động lực vĩ đại để bảo vệ và phát triển đất nước.

Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám đưa Đảng Cộng sản, đội tiên phong của giai cấp công nhân, của dân tộc Việt Nam thành một đảng cầm quyền. Do hoàn cảnh lúc bấy giờ, vai trò cầm quyền của Đảng không ghi vào Hiến pháp, song Đảng vẫn giữ vững và phát huy vai trò lịch sử đối với dân tộc, được toàn dân tin tưởng, tôn trọng và ủng hộ mạnh mẽ. Sự kết hợp đúng đắn giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị của chế độ cộng hòa dân chủ, bao gồm Đảng Cộng sản, Quốc hội, Chính phủ với việc phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc được tập hợp trong Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam là một đặc trưng của thể chế dân chủ cộng hòa do Đảng Cộng sản cầm quyền. Trong thể chế chính trị được quy định trong Hiến pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại của Đảng, của dân tộc được Quốc hội tôn vinh “xứng đáng đối với Tổ quốc” và giữ trọng trách Chủ tịch nước.

Chế định về vai trò của Chủ tịch nước được quy định trong Hiến pháp là một nét đặc trưng tiêu biểu, sáng tạo về tổ chức nhà nước pháp quyền Việt Nam. Chế định đó vừa giữ vững được vai trò của đảng cầm quyền, vừa phát huy vai trò của các tổ chức trong hệ thống chính trị Việt Nam, vừa tập trung quyền tối cao vào vị nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu của Đảng, cần được kế thừa, phát triển, bổ sung vào Hiến pháp 1992 sửa đổi về vị trí cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân, của dân tộc.

Tư tưởng, nguyên tắc xây dựng và nội dung Hiến pháp năm 1946 có giá trị khoa học sáng tạo và tính thực tiễn sâu sắc, in đậm dấu ấn tư tưởng nhà nước pháp quyền của dân tộc, do dân tộc và vì dân tộc của Hồ Chí Minh.

PGS. NGND. Lê Mậu Hãn

Đại học Quốc gia Hà Nội

 

1, 2, 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 1, tr. 469, 473.

4, 5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.7, 491.

6. Văn kiện Quốc hội toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t.1, tr. 53, 54, 103, 104.

7. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.49.

Bình luận