Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội trong điều kiện một Đảng cầm quyền

Ngày đăng: 23/01/2015 - 08:01

Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội là những bộ phận của hệ thống chính trị. Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với những bộ phận này, trong đó có đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng.

doimoiphuongthuclanhdao

1. Đảng cầm quyền và phương thức lãnh đạo của Đảng

Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội,  chịu trách nhiệm về những quyết định của mình trước nhân dân, dân tộc. Vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đã được nhân dân thừa nhận, ủy quyền, giao phó và được khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991), Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) và trong Hiến pháp năm 1980, 1992 và 2013. Điều 4 của Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định địa vị pháp lý của Đảng: “Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”.

Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là tất yếu khách quan, là tiền đề và điều kiện để Nhà nước giữ vững tính chất xã hội chủ nghĩa, bản chất của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân của mình. Trong những năm đổi mới, Đảng luôn củng cố, giữ vững vai trò lãnh đạo đối với Nhà nước, nắm chắc vai trò cầm quyền của mình - cầm quyền vì lợi ích của nhân dân. Nội dung chủ yếu sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là Đảng đề ra đường lối, chủ trương đúng đắn để xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật của Nhà nước và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật; tăng cường quản lý cán bộ, đảng viên trong bộ máy Nhà nước; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, vững mạnh; tăng cường kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên trong cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức sự nghiệp,  đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân, doanh nghiệp nhà nước trong việc thực hiện các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước.

Sự lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức chính trị - xã hội (Mặt trận Tổ quốc, Công đoàn, Đoàn Thanh niên cộng sản, Hội Nông dân, Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội Cựu chiến binh) là tất yếu và quan trọng để các tổ chức này hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích, phát huy chức năng giám sát và phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh.

Trong điều kiện Đảng cầm quyền và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Đảng rất coi trọng phương thức lãnh đạo của Đảng. Hiệu quả lãnh đạo không chỉ phụ thuộc vào nội dung lãnh đạo mà còn phụ thuộc vào phương thức lãnh đạo. Phương thức lãnh đạo là hệ thống những hình thức, biện pháp, cách thức mà chủ thể lãnh đạo là Đảng tác động vào đối tượng lãnh đạo (ở đây là Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội) nhằm thực hiện mục đích của mình. Phương thức lãnh đạo không phải là bất biến mà cũng vận động, biến đổi tùy thuộc vào sự biến đổi của điều kiện khách quan, vào đặc điểm của đối tượng lãnh đạo và năng lực của chủ thể lãnh đạo. Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, phát triển kinh tế thị trường, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng và ngoài xã hội… thì phương thức lãnh đạo của Đảng không thể không thay đổi so với thời kỳ kháng chiến chống ngoại xâm hoặc thời kỳ còn cơ chế kinh tế tập trung bao cấp trước đây.

Phương thức lãnh đạo của Đảng phải được xác định và xây dựng trên cơ sở khoa học, phù hợp với thực tiễn, luôn biến đổi cho phù hợp với tình hình và điều kiện cách mạng trong thực tế. Điều đó cũng có nghĩa là phương thức lãnh đạo thực chất là khoa học và nghệ thuật lãnh đạo của Đảng.

Trong những năm đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng nhận thức sâu sắc vai trò, tầm quan trọng của phương thức lãnh đạo và yêu cầu phải đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, mà trọng tâm là đối với Nhà nước. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng vừa phải bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, vừa phát huy tốt hơn tính chủ động, sáng tạo của các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, vừa tránh bao biện, làm thay, vừa tránh buông lỏng của các tổ chức đảng đối với cơ quan này. Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu bị sụp đổ, Đảng Cộng sản Việt Nam đã quyết định lập ra tổ chức Đảng đoàn trong các cơ quan dân cử (Quốc hội, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, thành phố), và trong các tổ chức chính trị - xã hội như Mặt trận Tổ quốc, Công đoàn, Hội Nông dân, Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội Cựu chiến binh; lập ra Ban Cán sự đảng trong các cơ quan hành pháp (chính phủ, các bộ, ngành ở Trung ương, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương) và Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao. Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong thời gian qua đã mang lại những thành tựu bước đầu quan trọng, góp phần nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng đồng thời phát huy tốt hơn vai trò quản lý của Nhà nước theo quy định của pháp luật, đóng góp tích cực vào những thành tựu chung của sự nghiệp đổi mới đất nước.

Là đảng cầm quyền, lại có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nên phương thức lãnh đạo của Đảng “phải chủ yếu bằng Nhà nước và thông qua Nhà nước”1. Đảng lãnh đạo Nhà nước nhưng không bao biện, làm thay Nhà nước. “Đảng lãnh đạo bằng Cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên”2. Đảng cầm quyền, nhưng tổ chức đảng và đảng viên phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

Là đảng cầm quyền, Đảng phải thường xuyên phòng chống các nguy cơ đối với một đảng cầm quyền, nhất là trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền. Đó là sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, độc đoán chuyên quyền, xa dân, mất dân chủ với nhân dân, là những nguy cơ lớn liên quan đến sự sống còn của Đảng, của chế độ xã hội chủ nghĩa.

Đảng lãnh đạo Nhà nước tức là phải lãnh đạo tất cả các nhánh quyền lực: lập pháp, hành pháp, tư pháp và ở mọi cấp, từ trung ương đến địa phương và cơ sở. Đối với Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, “Quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”3. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân do Đảng lãnh đạo. Quyền lực nhà nước xét cho cùng bắt nguồn từ quyền lực của nhân dân, do nhân dân ủy quyền, nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực. Đảng lãnh đạo Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội rốt cuộc cũng nhằm thực thi quyền lực của nhân dân, quyền làm chủ của nhân dân. “Quyền hành là ở nơi dân” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định

Cụ thể hóa phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội có thể nêu ra những định hướng sau đây:

- Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh chính trị, đường lối, chủ trương, chính sách; lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa cương lĩnh, đường lối, chính sách của Đảng thành Hiến pháp, pháp luật, cụ thể hóa thành các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và tổ chức nhân dân thực hiện có hiệu quả.

- Đảng lãnh đạo bằng định hướng giải quyết các vấn đề trọng đại của quốc kế dân sinh, hoặc các vấn đề cụ thể nhưng có ý nghĩa chính trị quan trọng quan hệ tới các tầng lớp nhân dân đông đảo hoặc quan hệ đến lĩnh vực đối ngoại.

- Đảng lãnh đạo bằng công tác tổ chức và cán bộ, thông qua việc giới thiệu cán bộ đủ tiêu chuẩn để ứng cử hoặc bổ nhiệm vào cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, lãnh đạo xây dựng bộ máy đảng, bộ máy nhà nước, bộ máy các đoàn thể trong sạch, vững mạnh.

- Đảng lãnh đạo bằng các tổ chức đảng trong các cơ quan nhà nước và đoàn thể (đảng đoàn, ban cán sự, đảng ủy) kết hợp chặt chẽ với cá nhân đảng viên hoạt động trong cơ quan nhà nước và đoàn thể theo nguyên tắc tập trung dân chủ và nêu cao vai trò trách nhiệm của đảng viên là người đứng đầu cơ quan, đơn vị.

Tổ chức đảng và đảng viên công tác trong cơ quan nhà nước, đoàn thể phải nghiêm chỉnh chấp hành mọi nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.

- Đảng lãnh đạo bằng công tác kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước và các đoàn thể thông qua tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên, các ban của Đảng, đồng thời lãnh đạo, tổ chức, động viên quần chúng nhân dân kiểm tra, giám sát, phản biện công việc và hoạt động của cơ quan nhà nước, của cán bộ trong bộ máy công quyền, phát hiện mặt tích cực để phát huy, mặt yếu kém để uốn nắn, khắc phục.

-  Đảng lãnh đạo bằng công tác tư tưởng - chính trị, bằng sự nêu gương của đảng viên, thông qua việc giáo dục nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, phong cách công tác, ý thức trách nhiệm, ý thức tôn trọng pháp luật, tinh thần phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; đồng thời giáo dục nhân dân chấp hành pháp luật, thực hiện nghiêm các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, tích cực tham gia xây dựng Đảng và Nhà nước.

- Đảng lãnh đạo các tổ chức chính trị - xã hội nhưng không áp đặt mà bằng cơ chế dân chủ, tôn trọng tính tự chủ của các đoàn thể, phù hợp với đặc điểm, chức năng của từng đoàn thể (chẳng hạn lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc thông qua cơ chế hiệp thương dân chủ).

2. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội, Chính phủ, cơ quan tư pháp và tổ chức chính trị - xã hội - thành tựu và hạn chế

a) Đối với Quốc hội

Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp,  quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.

Trong những năm đổi mới, cùng với quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội, hoạt động của Quốc hội ngày càng đổi mới, dân chủ, phát huy được vai trò, chức năng của Quốc hội. Quốc hội ngày càng thực quyền hơn, hiệu quả lãnh đạo của Đảng ngày càng nâng lên,  thể hiện ở chỗ:

- Các văn kiện của Đại hội Đảng, nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương các khóa đã xác lập được quan điểm đúng đắn làm cơ sở cho việc tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội.

- Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị đã ra các nghị quyết để đưa ra Quốc hội những định hướng lớn về bổ sung, sửa đổi Hiến pháp; định hướng, yêu cầu về tổ chức bầu cử Quốc hội cho từng nhiệm kỳ; định hướng xây dựng các đạo luật lớn, các vấn đề kinh tế - xã hội quan trọng; định hướng phát triển kinh tế - xã hội hằng năm;  Ban Chấp hành Trung ương quyết định việc giới thiệu nhân sự để Quốc hội bầu vào chức vụ Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ. Bộ Chính trị quyết định việc giới thiệu nhân sự bầu vào chức vụ Phó Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm các ủy ban của Quốc hội,…

- Sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là Bộ Chính trị đối với Quốc hội thể hiện ở tầm quan điểm, chủ trương, chính sách lớn. Vai trò lãnh đạo của Đảng mà trực tiếp là Bộ Chính trị đối với Quốc hội ngày càng theo phương thức là Đảng chỉ nêu định hướng, nguyên tắc, quan điểm, chủ trương, giải pháp lớn; còn để Quốc hội thảo luận, dân chủ quyết định theo thẩm quyền những điều khoản của các đạo luật, chỉ tiêu kinh tế - xã hội hằng năm,… Có những vấn đề tuy lớn nhưng Bộ Chính trị chỉ nêu phương hướng để Quốc hội thảo luận một cách dân chủ, quyết định về mặt nhà nước, không áp đặt.

- Đảng lựa chọn và giới thiệu đảng viên có trình độ, năng lực và phẩm chất tốt sang hoạt động ở Quốc hội. Bố trí một số Ủy viên Bộ Chính trị và Ủy viên Trung ương Đảng cần thiết tham gia vào Ủy ban Thường vụ Quốc hội và làm chủ nhiệm các ủy ban, hội đồng của Quốc hội.

- Trung ương Đảng và Bộ Chính trị thông qua Đảng đoàn Quốc hội và các đảng viên là đại biểu Quốc hội để lãnh đạo hoạt động của Quốc hội. Đảng đoàn Quốc hội chịu trách nhiệm trước Bộ Chính trị, Ban Bí thư, lãnh đạo Quốc hội thực hiện chức năng lập hiến, lập pháp, giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước; thực hiện đúng đắn đường lối, chủ trương của Đảng, quyết định những vấn đề về tổ chức, cán bộ theo sự phân công, phân cấp của Bộ Chính trị. Kiểm tra việc thực hiện đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng trong hoạt động của Quốc hội.

Bộ Chính trị chỉ đạo Đảng đoàn Quốc hội, các cơ quan có liên quan thực hiện tốt việc chuẩn bị cho các kỳ họp của Quốc hội, bảo đảm cho  dự án luật, những vấn đề quan trọng khác trình tại kỳ họp và các quyết định của Quốc hội phù hợp với đường lối của Đảng, đồng thời lắng nghe để tiếp thu ý kiến xây dựng của đại biểu Quốc hội, tôn trọng  quyết định của Quốc hội, tăng cường thảo luận, tranh luận, chất vấn đại biểu Quốc hội, phát huy dân chủ trong sinh hoạt Quốc hội. Nhờ vậy, hoạt động của Quốc hội ngày càng chất lượng, hiệu quả cao, sôi động hơn, thu hút sự quan tâm ngày càng rộng rãi của dư luận xã hội trong nước.

Bên cạnh những thành tựu nêu trên, trong phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội cũng còn một số hạn chế sau đây:

- Còn lúng túng trong nhận thức về phương thức lãnh đạo để chuyển từ nghị quyết, kết luận của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, của Bộ Chính trị thành luật, nghị quyết của Quốc hội. Nhận thức về mối quan hệ giữa quyền của Quốc hội với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất trong việc quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội… với quyền quyết định của Đảng với tư cách là đảng lãnh đạo chính quyền còn nhiều điểm chưa rõ.

- Chất lượng nhiều dự thảo luật còn thấp, năng lực làm luật còn nhiều hạn chế, khiến cho một số quy định pháp luật không mang tính khả thi hoặc thiếu chặt chẽ nên phải điều chỉnh, bổ sung nhiều lần; việc chuẩn bị một số dự án luật còn kéo dài, Quốc hội mất nhiều thời gian thảo luận về những vấn đề kỹ thuật. Một số luật từ văn bản luật chuyển thành nghị định, thông tư rất lâu nên luật chậm đi vào cuộc sống.

- Việc thực hiện chức năng giám sát của Quốc hội còn lúng túng, hiệu quả chưa cao. Cơ chế bảo vệ Hiến pháp trong điều kiện một đảng cầm quyền chưa được nghiên cứu sâu và toàn diện về lý luận và thực tiễn.

b) Đối với chính phủ và các bộ, ngành thuộc Chính phủ

Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội,

Trong quá trình đổi mới, Đảng đã có đổi mới quan trọng về phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Chính phủ, ngày càng phù hợp với vị trí và trách nhiệm của Đảng cầm quyền cũng như phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ là cơ quan công quyền, vừa không ngừng tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, vừa nâng cao hiệu lực quản lý, điều hành của Chính phủ; giảm bớt tình trạng bao biện, làm thay, “lấn sân” giữa Đảng và Chính phủ, thể hiện ở chỗ:

- Đã xây dựng được một hệ thống quan điểm, nguyên tắc đúng đắn về thẩm quyền và trách nhiệm, về tổ chức bộ máy của Chính phủ. Tổ chức các bộ và cơ quan ngang bộ theo hướng quản lý đa ngành, đa lĩnh vực. Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Nhà nước. Chính phủ, các bộ ngành tập trung thực hiện chức năng đề xuất dự án luật, xây dựng, ban hành thể chế, kế hoạch, quy hoạch, chính sách quản lý vĩ mô đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, chỉ đạo và kiểm tra việc thực hiện. Chính phủ điều hành vĩ mô, là người cầm lái và giám sát, kiểm tra, kiến tạo sự phát triển, bảo đảm hiệu lực của bộ máy hành chính nhà nước thông suốt từ trung ương đến cơ sở.

- Xác định ngày càng rõ hơn mối quan hệ giữa Đảng và Chính phủ, giữa Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị với Ban Cán sự đảng của Chính phủ. Với tư cách là người lãnh đạo chính trị, Đảng chỉ quyết định những vấn đề về quan điểm, tư tưởng, chủ trương lớn để chỉ đạo, định hướng cho Chính phủ tổ chức thực hiện. Đảng không quyết định những chủ trương cụ thể thuộc phạm vi quản lý của Chính phủ. Đảng không làm thay chính quyền. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị xem xét, quyết định những phương hướng, chủ trương, chính sách lớn trên các lĩnh vực bảo đảm đúng định hướng chính trị của Đảng. Chẳng hạn, về kinh tế - xã hội, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị xem xét, quyết định mục tiêu, phương hướng kế hoạch, phương hướng ngân sách nhà nước, chính sách về các thành phần kinh tế, cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý, quy hoạch phát triển một số vùng, ngành trọng yếu, chủ trương xây dựng những công trình lớn, trọng điểm quốc gia; chính sách về văn hóa, xã hội, giáo dục, khoa học, y tế v.v.. Trong lĩnh vực cải cách hành chính, Ban Chấp hành Trung ương ban hành chủ trương, nghị quyết về cải cách hành chính, còn Chính phủ có nhiệm vụ xây dựng và ban hành kế hoạch tổng thể về cải cách hành chính cho từng giai đoạn và tổ chức thực hiện. Như vậy, việc lựa chọn đúng vấn đề quan trọng liên quan tới hoạt động của Chính phủ mà Đảng cần bàn và ra quyết định là rất cần thiết để tránh được sự lẫn lộn giữa chức năng lãnh đạo của Đảng với chức năng quản lý của Chính phủ.

- Đảng bố trí một số đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Trung ương Đảng tham gia Ban Cán sự Đảng Chính phủ, tham gia lãnh đạo Chính phủ và các bộ, cơ quan ngang bộ (thông qua cơ chế Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn). Đảng lãnh đạo Chính phủ thông qua Ban Cán sự Đảng Chính phủ trực thuộc Bộ Chính trị, còn Ban Cán sự Đảng các bộ và cơ quan ngang bộ trực thuộc Ban Bí thư. Ban Cán sự đảng làm việc theo chế độ tập thể và chịu trách nhiệm trước cấp ủy.

Ban Cán sự đảng lãnh đạo quán triệt và tổ chức thực hiện đường lối, chính sách của Đảng; đề xuất với cấp ủy về phương hướng, nhiệm vụ, tổ chức, cán bộ và quyết định theo thẩm quyền; lãnh đạo công tác kiểm tra việc chấp hành đường lối, chính sách của Đảng. Ban Cán sự đảng Chính phủ chịu trách nhiệm chính trước Trung ương Đảng toàn bộ hoạt động của Chính phủ về thực hiện đường lối, chính sách, chủ trương của Đảng trong Chính phủ, là người trình các đề án về chủ trương, chính sách trước Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị. Trong công tác cán bộ, đối với cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý đang công tác tại các cơ quan trực thuộc Chính phủ, Ban Cán sự Đảng Chính phủ đề xuất nhân sự, nhận xét, đánh giá cán bộ, các ban đảng Trung ương thẩm định, trình Bộ Chính trị, Ban Bí thư xem xét, quyết định. Đối với cán bộ thuộc diện được phân cấp quản lý của Ban Cán sự đảng Chính phủ, Ban Cán sự đảng Chính phủ quyết định việc bổ nhiệm, miễn nhiệm sau khi có ý kiến thẩm định của các ban đảng Trung ương.

- Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với quân đội nhân dân, công an nhân dân và sự nghiệp quốc phòng - an ninh, tăng cường sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước đối với quốc phòng và an ninh.

Hạn chế và vấn đề đặt ra:

- Trong một số trường hợp chưa phân định rõ quyền lãnh đạo của Đảng đối với quyền quản lý, điều hành của Chính phủ hoặc bộ, ngành. Do đó, không ít trường hợp còn chồng chéo, trùng dẫm lên nhau, vẫn còn tình trạng cấp ủy bao biện làm thay hoặc buông lỏng lãnh đạo đối với hoạt động của chính quyền. Đồng thời có cả tình trạng cơ quan chính quyền vì sợ trách nhiệm và để “an toàn” nên đùn đẩy trách nhiệm cho cấp ủy đảng, thẩm quyền vốn của mình nhưng cứ trình ra xin quyết định của lãnh đạo Đảng.

- Chưa thật làm rõ chức năng, nhiệm vụ của Ban Cán sự đảng, mối quan hệ giữa Ban Cán sự đảng Chính phủ với Ban Cán sự đảng của bộ, ngành, quan hệ giữa Ban Cán sự đảng Chính phủ với Thường trực Chính phủ, với tập thể Chính phủ; mối quan hệ giữa Ban Cán sự đảng của bộ, ngành với lãnh đạo bộ, ngành,với đảng ủy bộ, ngành. Đôi khi sự tồn tại của Ban Cán sự đảng còn mang tính hình thức. Chưa phát huy tốt vai trò và trách nhiệm cá nhân của những cán bộ đảng giữ những vị trí chủ chốt trong chính quyền.

- Việc bố trí cán bộ đảng vào bộ máy nhà nước để lãnh đạo Chính phủ và các bộ ngành là vấn đề cực kỳ quan trọng của Đảng cầm quyền. Cần lựa chọn đúng và bố trí đúng những cán bộ vừa có năng lực lãnh đạo chính trị vừa có năng lực quản lý nhà nước, quản lý hành chính. Vì vậy, không nên chỉ lấy tiêu chuẩn cán bộ đảng để bố trí cán bộ chính quyền, không phải cứ là đảng viên, cấp ủy viên thì làm việc gì cũng được; và cũng không phải bất kỳ vị trí công tác nào trong chính quyền cũng phải do đảng viên hoặc cấp ủy viên đảm nhiệm, không nhất thiết bộ nào cũng phải có người đứng đầu là Ủy viên Trung ương Đảng.

Cần có cơ chế, quy chế phát huy cao độ trách nhiệm người đứng đầu Chính phủ và các bộ, ngành, nhất là trong công tác cán bộ; cần xác định rõ mối quan hệ giữa Ban Cán sự đảng với các ban, ngành Trung ương trong việc đánh giá, quy hoạch, bổ nhiệm, điều động, luân chuyển cán bộ thuộc chính quyền.

- Một số chủ trương, chính sách đúng nhưng chậm được thể chế hóa thành các quy định của Nhà nước; việc tổ chức thực hiện không kịp thời, thiếu kiên quyết nên đạt hiệu quả thấp. Ví dụ, trong cải cách nền hành chính nhà nước, đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí,…

c) Đối với Tòa án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân

Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp.

Viện Kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp.

Trong những năm đổi mới, phương thức lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực tư pháp có nhiều đổi mới, góp phần bảo đảm cho cơ quan tư pháp thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ quyền lợi chính đáng và hợp pháp của mọi người dân, bảo đảm pháp luật được thực thi nghiêm chỉnh và thống nhất, thể hiện ở chỗ:

- Đảng đã xây dựng được một hệ thống quan điểm tư tưởng chỉ đạo hoạt động ngành tư pháp, được thể hiện trong các nghị quyết, chỉ thị của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, lãnh đạo thể chế hóa những quan điểm đó thành Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013, thành Luật tổ chức Tòa án nhân dân và Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân (2002), và các đạo luật khác. Đặc biệt, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 2 tháng 1 năm 2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết số 49 ngày 2 tháng 6 năm 2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020,trong đó quy định tương đối toàn diện, có hệ thống mục tiêu, quan điểm, phương thức, nhiệm vụ cải cách tư pháp đến năm 2020; khẳng định yêu cầu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc; hoạt động tư pháp mà trọng tâm tâm là hoạt động xét xử được tiến hành hiệu quả và đạt hiệu lực cao; Bộ Chính trị đã thành lập Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp để xây dựng Đề án cải cách tư pháp và chương trình công tác hằng năm của Ban Chỉ đạo.

- Đã xác định quan điểm về tổ chức bộ máy, nguyên tắc hoạt động của cơ quan tư pháp và tiêu chuẩn bổ nhiệm chức danh tư pháp làm cơ sở cho đổi mới, hoàn thiện tổ chức của tòa án nhân dân và viện kiểm sát nhân dân. Kể từ Hiến pháp năm 1992, tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân đã có một số đổi mới: Chế độ bầu thẩm phán trước đây đã được thay thế bằng chế độ bổ nhiệm thẩm phán; lập mới các tòa chuyên trách (tòa hành chính, tòa lao động, tòa kinh tế). Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp, nhiều quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân đã được sửa đổi, bổ sung hoặc xây dựng mới, tạo cơ sở pháp lý cho việc đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án, qua đó góp phần nâng cao chất lượng xét xử của tòa án, hạn chế bớt các trường hợp bị xét xử oan sai. Trong xét xử đã có quy trình khoa học hơn, nâng cao hiệu quả tranh tụng, coi trọng vai trò của luật sư.

Thực hiện Hiến pháp năm 1992 và chủ trương cải cách tư pháp, chức năng, nhiệm vụ của viện kiểm sát nhân dân được điều chỉnh nhằm thực hiện có hiệu lực và hiệu quả chức năng chủ yếu của mình, tránh chồng chéo trong hoạt động với các cơ quan khác, tập trung thực hiện chức năng công tố và kiểm sát tư pháp, giải quyết các vụ án hành chính, kinh tế, lao động và phá sản doanh nghiệp.

Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự đã có tiến bộ, chất lượng công tác kiểm sát được nâng lên. Tòa án các cấp và Viện Kiểm sát các cấp coi trọng việc rèn luyện phẩm chất, nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ tòa án và viện kiểm sát.

- Kiện toàn Ban Cán sự đảng Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (đều trực thuộc Ban Bí thư). Xác định chức năng, nhiệm vụ, quy chế làm việc, quy định quan hệ lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư đối với hai ban cán sự đảng này; xác định mối quan hệ làm việc với Đảng đoàn Quốc hội,… Ban Cán sự đảng của Tòa án nhân dân tối cao và Viện Kiểm sát nhân dân tối cao phải chịu trách nhiệm lãnh đạo công tác của ngành theo đúng chủ trương, đường lối của Đảng và quy định của pháp luật, có trách nhiệm trong giải quyết công tác cán bộ có đủ năng lực, phẩm chất để bầu hoặc bổ nhiệm vào các chức vụ và chức danh của cơ quan tư pháp và các chức danh tư pháp khác theo quy định của pháp luật.

- Đảng lãnh đạo ngành tòa án nhưng tôn trọng tính độc lập trong xét xử của tòa án. Khi xét xử, tòa án chỉ tuân theo pháp luật, “Thẩm phán Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” (Điều 103, Hiến pháp năm 2013). Vì vậy, đã giảm nhiều tình trạng cấp ủy can thiệp vào công tác xét xử của tòa án, nhất là quyết định mức án cụ thể, giảm nhiều tình trạng “bản án bỏ túi”. Đối với một số vụ án đặc biệt nghiêm trọng có liên quan đến an ninh chính trị, đối ngoại, đến cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý hoặc theo đề nghị của các cơ quan tư pháp, Bộ Chính trị, Ban Bí thư chỉ đạo về chủ trương xử lý, nhưng không quyết định những vấn đề cụ thể thuộc thẩm quyền của các cơ quan tư pháp4.

- Chỉ đạo việc kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan, các chức danh tư pháp và nhân viên hoạt động trong cơ quan tư pháp, bảo đảm cho cơ quan tư pháp làm tốt chức năng, nhiệm vụ được giao, bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm minh và thống nhất; góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của công dân, chống bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội,…

Hạn chế:

- Vẫn còn tình trạng một số cấp ủy can thiệp sâu vào hoạt động nghiệp vụ của cơ quan tư pháp. Sự chỉ đạo của các cấp ủy đảng trong việc xử lý một số vụ án vẫn còn vướng mắc. Trong thực hành quyền công tố, còn để lọt tội phạm, nhất là tội phạm về kinh tế. Vẫn còn tình trạng oan, sai trong điều tra, bắt, giam giữ, truy tố, xét xử.

- Quá trình chỉ đạo các cơ quan tư pháp trong kiện toàn tổ chức, bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ còn nhiều hạn chế; đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp còn thiếu.

d) Đối với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội là những bộ phận quan trọng của hệ thống chính trị, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, chăm lo lợi ích của các đoàn viên, hội viên; thực hiện dân chủ và xây dựng xã hội lành mạnh; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước; giáo dục lý tưởng và đạo đức cách mạng, quyền và nghĩa vụ công dân, tăng cường mối liên hệ giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước.

Vì vậy, trong những năm đổi mới, Đảng rất coi trọng việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, thể hiện ở chỗ:

- Đảng tôn trọng tính tự chủ, ủng hộ mọi hoạt động tự nguyện, tích cực, sáng tạo và chân thành lắng nghe ý kiến đóng góp của Mặt trận và các đoàn thể; Đảng, Nhà nước có cơ chế, chính sách, tạo điều kiện để Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội hoạt động có hiệu quả.

- Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa vai trò, chức năng, thẩm quyền và trách nhiệm của các tổ chức chính trị - xã hội thành các đạo luật: Luật Mặt trận Tổ quốc, Luật Công đoàn, Luật Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh; Luật Hội Nông dân, Luật Hội Liên hiệp phụ nữ và Pháp lệnh Hội Cựu chiến binh.

- Kiện toàn Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc và đảng đoàn các đoàn thể chính trị - xã hội trực thuộc Ban Bí thư. Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của đảng đoàn, quy định quan hệ lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư đối với Đảng đoàn Mặt trận và đảng đoàn các đoàn thể; quan hệ công tác giữa Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc với Đảng đoàn Quốc hội, với Ban Cán sự đảng Chính phủ và Ban Cán sự đảng các bộ, ngành trung ương và với cấp ủy địa phương; quan hệ giữa Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc với đảng đoàn các tổ chức thành viên của Mặt trận.

- Bộ Chính trị, Ban Bí thư lãnh đạo, định hướng nội dung hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội trong từng thời kỳ, phát huy tính năng động, sáng tạo, đa dạng hóa các hình thức tổ chức và hoạt động, tăng cường công tác tuyên truyền, vận động, thuyết phục, giải thích rõ quan điểm, đường lối của Đảng để tạo sự đồng thuận, thống nhất cao trong Mặt trận, đổi mới phương thức hoạt động, khắc phục tình trạng quan liêu, hành chính hóa trong hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể. Phân biệt nguyên tắc hiệp thương chính trị trong hoạt động của Mặt trận Tổ quốc với nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động của đảng đoàn và sinh hoạt đảng của từng đảng viên ở Mặt trận Tổ quốc. Bộ Chính trị ban hành và lãnh đạo thực hiện Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội và Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền.

- Đảng chuẩn bị việc giới thiệu đảng viên để Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội bầu giữ các vị trí lãnh đạo chủ chốt của mình.

Hạn chế:

- Phương thức tổ chức, phong cách hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội vẫn chưa khắc phục được tình trạng hành chính hóa, phương thức hoạt động chậm được đổi mới nên hiệu quả còn thấp.

- Chậm ban hành quy định cụ thể về phương thức Đảng lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội; về mối quan hệ công tác giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị.

đ) Đối với công tác cán bộ trong hệ thống chính trị

Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII về chiến lược cán bộ đã nhấn mạnh: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ”. Vì vậy, trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, Đảng Cộng sản Việt Nam rất quan tâm đến đổi mới phương thức lãnh đạo công tác cán bộ, thể hiện ở chỗ:

- Đảng xác định những quan điểm đúng đắn để lãnh đạo công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ trong cơ quan nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội.

Mục tiêu đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác cán bộ trong bộ máy nhà nước là xây dựng cho được một đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, thành thạo công việc quản lý nhà nước, có năng lực thể chế hóa đúng đắn, kịp thời quan điểm, đường lối của Đảng và có khả năng quy tụ sức mạnh của toàn dân để thực hiện có hiệu quả quan điểm, đường lối đó.

Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đi đôi với phát huy trách nhiệm của  tổ chức và người đứng đầu các tổ chức về công tác cán bộ; phải có phương pháp khoa học, khách quan, công tâm, theo quy trình chặt chẽ, phát huy dân chủ, dựa vào tập thể và nhân dân để tuyển chọn cán bộ.

- Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư chỉ đạo các cấp ủy đảng, đảng đoàn, ban cán sự đảng, trên cơ sở tiêu chuẩn cán bộ chung, xây dựng tiêu chuẩn cụ thể cho từng chức danh cán bộ và xác định cơ cấu của đội ngũ cán bộ của cả hệ thống chính trị làm cơ sở cho công tác quy hoạch, xây dựng đội ngũ cán bộ ở các cấp, các ngành.

- Tiếp tục sửa đổi, bổ sung, đổi mới đồng bộ quy định, quy chế về đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, luân chuyển, đề bạt và thực hiện chính sách cán bộ. Xây dựng quy chế về giám sát trong Đảng, giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và nhân dân đối với với cán bộ và công tác cán bộ.

Hoàn thiện quy chế bổ nhiệm và chế độ bầu cử theo hướng giới thiệu nhiều phương án nhân sự để lựa chọn, mở rộng quyền đề cử, ứng cử của cán bộ, đảng viên, bầu cử có số dư. Có cơ chế phát hiện người có đức có tài, cả đảng viên và người ngoài Đảng; thực hiện thi tuyển đối với một số chức danh lãnh đạo chuyên môn trong bộ máy hành chính nhà nước. Xây dựng quy chế miễn nhiệm, từ chức, quy chế lấy phiếu tín nhiệm đối với những chức danh do Quốc hội hoặc Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn v.v..

Hạn chế và vấn đề đặt ra:

- Chưa xây dựng được đồng bộ những quy định cụ thể về phương thức lãnh dạo của Đảng trong các tổ chức của Nhà nước về công tác cán bộ.

- Cần tiếp tục đổi mới cơ cấu đại biểu Quốc hội theo hướng tăng số đại biểu là người ngoài Đảng, đại biểu chuyên trách, đại biểu là công nhân, người dân tộc thiểu số,…

- Việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ vẫn còn những biểu hiện vừa thiếu dân chủ, vừa thiếu kỷ cương, tập trung quan liêu, dân chủ hình thức, kỷ luật lỏng lẻo.

- Việc phát huy trách nhiệm cá nhân người đứng đầu cơ quan, tổ chức chưa tốt, có tình trạng dựa dẫm, ỷ lại tập thể. Thành tích thì nhận về cá nhân, còn khuyết điểm thì đổ cho tập thể.

- Chậm xây dựng cơ chế, chính sách phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nhân tài. Không ít cán bộ lãnh đạo, quản lý các ngành, các cấp còn yếu về kiến thức, năng lực, suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống.

3. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội

Qua gần 30 năm đổi mới, nhờ đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và hệ thống chính trị phù hợp với tình hình mới nên đã vừa giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng đối với xã hội, vừa phát huy và nâng cao hiệu quả quản lý kinh tế - xã hội của Nhà nước.

Tuy nhiên, như Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa X đã nhận định: “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị mà trọng tâm là đối với Nhà nước còn chậm và lúng túng. Vẫn còn tình trạng cấp ủy bao biện làm thay hoặc buông lỏng lãnh đạo đối với hoạt động của hệ thống chính trị trên một số lĩnh vực. Chậm ban hành những quy định cụ thể về phương thức Đảng lãnh đạo Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội; về mối quan hệ công tác giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị”.

Vì vậy, Đại hội lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra nhiệm vụ phải “tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị. Khắc phục tình trạng Đảng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng lãnh đạo các cơ quan quản lý nhà nước”5.

Theo yêu cầu trên đây, cần thực hiện các giải pháp sau:

- Tiếp tục nghiên cứu làm sáng tỏ về lý luận và thực tiễn mô hình tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị, trong đó Đảng vừa là một bộ phận vừa là người lãnh đạo của hệ thống.

- Tiếp tục nghiên cứu làm sáng tỏ chức năng, nhiệm vụ, tổ chức và hoạt động của các cơ quan, thiết chế nhà nước (Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, các cơ quan tư pháp, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp); vấn đề phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp,…

- Tiếp tục nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn về thẩm quyền và trách nhiệm của Đảng và của Nhà nước, mối quan hệ giữa lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước.

- Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện quy chế phối hợp giữa cơ quan, tổ chức đảng với cơ quan, tổ chức nhà nước ở các cấp, với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội.

- Tiếp tục tổng kết và đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực xây dựng nhà nước, xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật, xây dựng các đoàn thể chính trị - xã hội.

- Tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát, chỉ đạo sát sao hơn hoạt động thanh tra và hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật khác.

- Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng đối với công tác cán bộ trong hệ thống chính trị, bảo đảm Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ.

- Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, tôn trọng nguyên tắc hiệp thương dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc.

- Đổi mới phong cách, lề lối làm việc trong các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ trung ương đến địa phương, cơ sở. Phát huy vai trò, trách nhiệm của tổ chức đảng, đảng viên, cấp ủy viên hoạt động trong cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể chính trị - xã hội. Đổi mới cách ra nghị quyết, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện, kiểm tra, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết của Đảng. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong Đảng, giảm bớt giấy tờ, hội họp; cán bộ phải sâu sát thực tế, cơ sở; nói đi đôi với làm.

- Đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về đảng cầm quyền, về phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện một đảng cầm quyền.

GS.TS. Lê Hữu Nghĩa

Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương

Trích trong “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu  của Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền”,

Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2014.

1,2,3 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc  lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 144, 88, 85.

4. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa X về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc  lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 264.




Bình luận