Đại thắng mùa Xuân 1975 - Bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam

Ngày đăng: 24/04/2013 - 08:04

Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, là thắng lợi to lớn, nhanh chóng và toàn diện nhất trong toàn bộ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, thể hiện sáng rõ nhất bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh.

Nhan dan HN mit tinh mung chien thang 5-1975

Nhân dân Hà Nội mít tinh mừng chiến thắng (5-1975)

Bản lĩnh Việt Nam

Trải qua những năm tháng chiến đấu ác liệt, phải đương đầu và đánh thắng từng bước hơn nửa triệu quân Mỹ, quân đồng minh của Mỹ và hàng triệu quân Sài Gòn, quân và dân miền Nam, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, trực tiếp là Trung ương Cục miền Nam, đã rèn đúc nên một bản lĩnh kiên cường, một quyết tâm không gì lay chuyển nổi, sẵn sàng vượt qua mọi nguy hiểm, khó khăn, đạp bằng chông gai, hoàn thành mục tiêu giải phóng miềnNam, thống nhất Tổ quốc. Quyết tâm, bản lĩnh đó đã thể hiện cao độ trong những ngày tháng cuối cùng của cuộc chiến tranh giải phóng vĩ đại của dân tộc.

Khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đang ở vào giai đoạn gay go, ác liệt, cách mạng miền Nam vừa mới ra khỏi thời kỳ khó khăn kéo dài từ sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, bước vào thời kỳ hồi phục, thì lại gặp phải một tình thế bất lợi từ bên ngoài. Đó là việc Tổng thống Mỹ Nixon triển khai cái gọi là Học thuyết Nixon về châu Á, mà trọng tâm là chủ trương “Việt Nam hóa chiến tranh”, chia rẽ mối quan hệ và hạn chế sự giúp đỡ của Trung Quốc, Liên Xô cho cuộc kháng chiến của Việt Nam. Sau chuyến đi của Nixon đến Bắc Kinh (2-1972) và Mátxcơva (5-1972), sự ủng hộ, giúp đỡ của Trung Quốc và Liên Xô đối với Việt Nam giảm sút nhiều. Tuy nhiên, đứng trước tình hình bất lợi đó, Đảng ta và quân dân cả nước đã tỏ rõ bản lĩnh chính trị của mình, kiên định đường lối độc lập, tự chủ, hạn chế đến mức thấp nhất có thể được sự bất lợi do thỏa thuận Mỹ - Trung Quốc - Liên Xô tác động, quyết tâm tiến hành cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn.

Với việc Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết đã mở ra một bước ngoặt vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Chính phủ Mỹ buộc phải rút hết quân Mỹ và quân đồng minh ra khỏi miền Nam Việt Nam, trong khi lực lượng của ta ở miền Nam vẫn ở lại. Tương quan lực lượng trên chiến trường thay đổi lớn, có lợi cho ta. Tuy nhiên, so sánh lực lượng về quân số, vũ khí, trang bị, phương tiện chiến tranh của quân đội Sài Gòn vẫn lớn hơn ta khá nhiều.

Sau gần hai năm chuẩn bị, trên cơ sở đánh giá, phân tích, nhận định tình hình, thế và lực của hai bên, Đảng ta đã quyết định mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, mở đầu là đòn đánh điểm huyệt, giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột, làm rung chuyển Tây Nguyên, dẫn Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu đến sai lầm rút bỏ địa bàn trọng yếu này, gây nên cơn hoảng loạn không gì ngăn chặn nổi trong hàng ngũ viên chức chính quyền và quân đội Sài Gòn cùng một bộ phận lớn người dân sống trong vùng họ đang kiểm soát. Một cuộc rút chạy khỏi Tây Nguyên với quy mô chưa từng có, không được trù tính trước, đã báo hiệu sự sụp đổ nhanh chóng và không tránh khỏi của chế độ Việt Nam Cộng hòa.

Nhận thấy thời cơ chiến lược xuất hiện, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã liên tục bổ sung quyết tâm chiến lược, nhạy bén nắm bắt thời cơ, tạo thời cơ và thúc đẩy thời cơ, bắt kịp sự thay đổi nhanh chóng của cục diện chiến trường, thay đổi quyết sách từ kế hoạch cơ bản giải phóng miền Nam trong vòng hai năm lúc đầu chuyển sang kế hoạch thời cơ trong một năm, rồi hạ quyết tâm giải phóng miền Nam trước mùa mưa năm 1975.

Trong những ngày cuối cùng của chế độ Sài Gòn, trước sức mạnh tiến công của ta, một số thế lực quốc tế đã hoạt động ráo riết hòng xoay chuyển kết cục chiến tranh theo ý của họ. Gác sang một bên những hoạt động trung gian hối hả, những tuyên bố bóng gió mang hàm ý ngăn đe, tập thể lãnh đạo Đảng ta vẫn kiên định mục tiêu giải phóng hoàn toàn miềnNam, thống nhất đất nước. Đó là một quyết tâm lớn rất táo bạo, nhưng hết sức chính xác, thể hiện bản lĩnh, đồng thời cũng là trí tuệ của một tập thể lãnh đạo xuất sắc, đại diện cho ý chí, tinh thần và trí tuệ của cả dân tộc.

Trí tuệ Việt Nam

Ngay từ tháng 8-1973, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã giao cho Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng tham mưu nhiệm vụ xây dựng kế hoạch chiến lược. Kế hoạch này đã được các đồng chí lãnh đạo cao nhất của Đảng, quân đội góp ý, bổ sung tới 8 lần để có bản kế hoạch hoàn chỉnh trình Bộ Chính trị tại cuộc họp mở rộng vào cuối tháng 12-1974, đầu tháng 1-1975 thông qua, nhằm đạt được yêu cầu: tạo ra sức mạnh tổng hợp, kết hợp quân sự với chính trị, khởi nghĩa với chiến tranh, phối hợp ba mũi giáp công, ba vùng chiến lược, tiêu diệt địch để làm chủ, làm chủ để tiêu diệt địch, tiến tới tổng tiến công và nổi dậy, đánh thắng địch tại sào huyệt quan trọng nhất là Sài Gòn, để kết thúc chiến tranh.

Quyết tâm của Bộ Chính trị được thể hiện trong kế hoạch chiến lược cơ bản hai năm 1975-1976: năm 1975 tranh thủ bất ngờ, tiến công rộng khắp tạo điều kiện để năm 1976 tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa, giải phóng hoàn toàn miền Nam. Bên cạnh kế hoạch hai năm, Bộ Chính trị còn dự kiến một kế hoạch khác: nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975, thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975.

Mặc dù Mỹ phải rút hết quân khỏi miền Nam sau Hiệp định Pari, nhưng Đảng ta không loại bỏ hoàn toàn khả năng Mỹ đưa quân trở lại khi có tình hình bất lợi đối với chế độ Sài Gòn. Bên cạnh tin tức của tình báo chiến lược, Đảng ta quyết định “nắn gân Mỹ” bằng việc mở Chiến dịch đường 14 - Phước Long vào cuối tháng 12-1974, đầu tháng 1-1975, giải phóng hoàn toàn tỉnh Phước Long với hơn 50 vạn dân. Tuy bị mất Phước Long, nhưng Mỹ và chính quyền Nguyễn Văn Thiệu chỉ phản ứng hạn chế. Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn Matin thông báo cho Tổng thống Việt Nam Cộng hòa biết việc Mỹ không thể sử dụng không quân yểm trợ cho quân đội Sài Gòn tái chiếm Phước Long. Tổng thống Mỹ Gerald Ford tuyên bố: Mỹ không có hành động nào ngoài việc viện trợ bổ sung cho Sài Gòn và sẽ không can thiệp vào miền Nam Việt Nam nếu xét thấy không phù hợp với Hiến pháp và luật pháp Hoa Kỳ. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cũng tuyên bố trong một cuộc họp nội các ngay khi Phước Long chưa thất thủ là quân đội Sài Gòn sẽ không tăng viện cho Phước Long hay cố gắng lấy lại tỉnh này nếu rơi vào tay Việt cộng.

Như vậy là “đòn trinh sát chiến lược” đã cho ra đáp số đúng với nhận định của Đảng ta: Mỹ không còn khả năng quay trở lại. Nhận định này là cơ sở rất quan trọng để Bộ Chính trị hạ quyết tâm: Nắm vững thời cơ lịch sử, mở nhiều chiến dịch tổng hợp liên tiếp, đánh những trận quyết định, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, tiến tới thống nhất Tổ quốc.

Điều đặc biệt đầu tiên cần nói đến là việc chọn hướng tiến công và mục tiêu tiến công mở màn cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975. Việc chọn địa bàn chiến lược Tây Nguyên và đánh trận mở màn vào thị xã Buôn Ma Thuột là sự thể hiện rõ nhất trí tuệ của tập thể lãnh đạo Việt Nam trong điều hành chiến tranh ở giai đoạn cuối có tính quyết định. Ta đã giữ được bí mật, bất ngờ đến phút cuối cùng, tập trung được một lực lượng quân sự lớn, áp đảo đánh vào nơi kẻ địch không ngờ tới. Đòn điểm huyệt Buôn Ma Thuột đã gây choáng váng cho chính quyền Sài Gòn, làm rung động toàn bộ thế bố trí chiến lược của chúng, khiến kẻ thù phạm tiếp một sai lầm chiến lược là rút chạy khỏi Tây Nguyên, mở ra cho quân và dân ta thời cơ lớn, thuận lợi để thực hiện tổng tiến công và nổi dậy.

Sau khi Chiến dịch Tây Nguyên toàn thắng, Bộ thống soái của ta đã có chủ trương đúng, phù hợp với tình hình thực tế chiến trường là vừa tiến hành truy kích quân địch rút chạy, vừa thực hiện chia cắt chiến lược thế bố trí của địch bằng cách mở liên tiếp hai chiến dịch tiến công giải phóng Huế và chiến dịch tiến công giải phóng Đà Nẵng, đẩy lùi và cô lập kẻ thù về phía Nam. Bộ Chính trị chỉ đạo các cánh quân: phải hành động thần tốc, táo bạo, bất ngờ, phải tiến công lúc địch hoang mang, suy sụp, phải tập trung lực lượng lớn hơn nữa vào những mục tiêu chủ yếu trên từng hướng, trong từng lúc; kết hợp tiến công với nổi dậy, nổi dậy của quần chúng nhân dân với tiến công quân sự của các lực lượng vũ trang.

Để chuẩn bị cho Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, Đảng ta đã tập trung cao độ sự lãnh đạo bằng việc cử ba đồng chí  viên Bộ Chính trị tham gia chỉ đạo chiến dịch. Bộ thống soái cũng quyết định tập trung toàn bộ lực lượng quân sự có thể huy động được cho chiến dịch cuối cùng mang tính quyết định này, đồng thời tiến công Sài Gòn - Gia Định từ 5 hướng nhằm tạo thế áp đảo kẻ thù, giành thắng lợi to lớn nhất, trong thời gian sớm nhất. Bên cạnh đó, một lực lượng hải quân, đặc công đã được sớm điều động ra giải phóng các đảo thuộc quần đảo Trường Sa, nhằm giành thắng lợi toàn diện, triệt để, tránh những phức tạp nảy sinh trong bối cảnh tình hình khu vực và quốc tế có những điểm không thuận lợi.

Không chỉ giải phóng hoàn toàn và trọn vẹn miền Nam trong một thời gian rất ngắn mà chúng ta còn giải quyết vấn đề chính trị - chính quyền trong những ngày cuối cùng của chiến tranh một cách sáng tạo, giữ gìn được gần như nguyên vẹn các khu vực nông thôn và thành thị vốn do chính quyền Sài Gòn kiểm soát, hạn chế tổn thất máu xương của nhân dân và của cả hai bên tham chiến. Điều này đã thể hiện trong suốt quá trình lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ thống soái, được các cấp, các đơn vị lực lượng vũ trang, các địa phương thực hiện nghiêm túc nhưng mềm dẻo, có hiệu quả. Ta đã giải phóng và tiếp quản hầu như nguyên vẹn toàn bộ cơ sở vật chất quân sự, kinh tế, kết cấu hạ tầng của chế độ Sài Gòn, lật đổ các cấp chính quyền địch, đặc biệt là chính phủ và quân đội Việt Nam cộng hòa, một cách ít đổ máu nhất.

Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử sẽ “mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng”, kết tinh bản lĩnh, trí tuệ của cả dân tộc, đặc biệt là Bộ thống soái tối cao.

PGS. TS. Nguyễn Mạnh Hà

Viện trưởng  Lịch sử Đảng

Bình luận