Lựa chọn và giải pháp nào cho nền kinh tế xanh Việt Nam (Tiếp theo và hết)

Ngày đăng: 05/01/2015 - 16:01

LTS: Kinh tế xanh được Liên Hiệp Quốc định nghĩa là nền kinh tế vừa mang lại hạnh phúc cho con người và công bằng xã hội, vừa giảm thiểu đáng kể các rủi ro về môi trường và khủng hoảng sinh thái. Một nền kinh tế xanh được đặc trưng bởi sự tăng trưởng bền vững của các hợp phần kinh tế có khả năng duy trì và gia tăng nguồn vốn tự nhiên của trái đất.

 

xanh TMYT-chua dang

Hiện nay, phát triển kinh tế xanh là sự lựa chọn chiến lược của nhiều quốc gia, khu vực trên thế giới. Hiệu quả và mô hình thành công từ chiến lược phát triển kinh tế xanh trên thế giới là không thể phủ nhận dưới nhiều khía cạnh: kinh tế - xã hội, môi trường tự nhiên, thói quen tiêu dùng xanh, tiêu dùng thông minh…Là một trong năm quốc gia bị tác động nghiêm trọng nhất bởi biến đổi khí hậu, Việt Nam không thể chần chừ hơn nữa trong sự chuyển dịch xanh hóa nền kinh tế vốn có nhiều lợi thế.

 

Bài viết này tập trung giải quyết các vấn đề: 1) Lí thuyết và thực tiễn về kinh tế xanh trên thế giới và Việt Nam; 2) Vì sao phải lựa chọn mô hình phát triển kinh tế xanh trong quá trình phát triển đất nước; 3) Giải pháp nào cho phát triển nền kinh tế xanh tại Việt Nam?

(Kỳ II: Tiếp theo và hết)

 

Các điều kiện cho phép hỗ trợ chuyển đổi sang nền kinh tế xanh toàn cầu

- Tạo điều kiện cho một nền kinh tế xanh:

Tạo điều kiện cho một nền kinh tế xanh có nghĩa là tạo ra một bối cảnh mà trong đó hoạt động kinh tế làm tăng vốn chủ sở hữu của con người và xã hội, và làm giảm đáng kể rủi ro môi trường và sinh thái. Thay đổi môi trường kinh tế theo cách này là một cam kết đầy tham vọng, đòi hỏi một tập hợp toàn diện các chính sách để vượt qua một loạt các rào cản trong quá trình đầu tư. Các chính phủ sẽ cần phải tập trung sửa chữa cấu trúc và mô hình thị trường không bền vững trong hiện tại, thay đổi việc đầu tư trong ngắn và trung hạn. Nền kinh tế xanh cũng làm dấy lên câu hỏi là liệu các biện pháp cổ điển của hoạt động kinh tế, chẳng hạn như tăng trưởng về tổng sản phẩm quốc nội (GDP) có đủ để đánh giá sự giàu có của một quốc gia cũng như mức sống của người dân trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế xanh.

- Thiết lập đầu tư và chi tiêu hiệu quả có thể kích thích “xanh hóa” các lĩnh vực kinh tế:

Trong khi phần lớn các khoản đầu tư trong nền kinh tế xanh đến từ khu vực tư nhân, việc sử dụng hiệu quả chi tiêu công và các ưu đãi đầu tư có thể đóng một vai trò hữu ích trong việc kích hoạt các quá trình chuyển đổi sang một nền kinh tế xanh. Đầu tư công vào cơ sở hạ tầng và dịch vụ công cộng để cho phép phát triển thị trường xanh và bảo đảm sử dụng hiệu quả hơn môi trường và tài nguyên thiên nhiên. Chính phủ cũng có thể kích thích thị trường bằng cách thực hiện mua sắm bền vững, tạo ra nhu cầu cao và dài hạn đối với hàng hóa và dịch vụ xanh. Điều này sẽ cho phép các công ty đầu tư dài hạn vào đổi mới sản xuất, dẫn tới việc thương mại hóa rộng lớn hơn hàng hóa và dịch vụ xanh, cũng như tiêu thụ bền vững hơn. Tuy nhiên, đầu tư và chi tiêu cho một nền kinh tế xanh cũng cần được đánh giá thường xuyên để bảo đảm công bằng, minh bạch, trách nhiệm và hiệu quả chi phí.

- Sử dụng thuế và các công cụ thị trường để thúc đẩy đổi mới và đầu tư xanh:

Biến động giá cả là một nguyên nhân khiến cho các nhà đầu tư ngại đầu tư và mở rộng vào kinh tế xanh. Trong nhiều ngành kinh tế, những ngoại tác tiêu cực như ô nhiễm, ảnh hưởng tới sức khỏe hay giảm năng suất, thường không được phản ánh trong giá cả; do đó, làm giảm động cơ của các nhà sản xuất chuyển sang các sản phẩm và dịch vụ bền vững hơn. Một giải pháp cho vấn đề này là lồng ghép các khoản chi phí ngoại tác vào trong giá của một hàng hóa hoặc dịch vụ thông qua một khoản phí khắc phục, thuế hoặc đánh thuế gần nguồn ô nhiễm, hoặc trong một số trường hợp, bằng cách sử dụng các công cụ thị trường khác, chẳng hạn như cấp giấy phép giao dịch. Ngoài ra, việc thiết lập chi phí cho các dịch vụ sinh thái như hấp thụ carbon, bảo vệ rừng đầu nguồn, lợi ích đa dạng sinh học và vẻ đẹp cảnh quan, có thể khiến cho các chủ đầu tư nắm rõ hơn giá trị của các dịch vụ này.

- Chi tiêu chính phủ vào các lĩnh vực làm suy giảm tài nguyên môi trường là phản tác dụng cho một quá trình chuyển đổi nền kinh tế xanh:

Quản lý kém chi tiêu công có thể khiến quốc gia chịu nhiều thiệt hại. Việc giảm giá của hàng hóa thông qua trợ giá có thể vô tình khuyến khích việc sản xuất kém hiệu quả, tăng lượng chất thải và sử dụng quá mức nguyên nhiên liệu, sớm dẫn đến sự khan hiếm các nguồn tài nguyên có giá trị hữu hạn hoặc suy thoái các nguồn tài nguyên tái tạo và các hệ sinh thái. Những trợ cấp lỗi thời như vậy cũng dẫn tới mất công bằng xã hội. Hơn nữa, chúng còn làm giảm lợi nhuận của các khoản đầu tư xanh: khi trợ giá khiến cho giá các sản phẩm thấp đi, nó khiến cho thị trường không mặn mà với việc đầu tư lớn vào các ngành kinh tế xanh. Cải cách trợ cấp kinh tế phù hợp có thể mang lại cả lợi ích kinh tế và môi trường. Tuy nhiên, vẫn cần những biện pháp hỗ trợ ngắn hạn đi kèm để bảo vệ người nghèo.

- Một khung pháp lý được thiết kế tốt sẽ tạo ra động lực khuyến khích các hoạt động kinh tế xanh:

Khuôn khổ điều tiết vững mạnh ở cấp quốc gia, cũng như việc thực thi hiệu quả của pháp luật, có thể là một phương tiện mạnh thúc đẩy đầu tư xanh. Một khuôn khổ như vậy làm giảm các rủi ro pháp lý và kinh doanh và làm tăng sự tự tin của các nhà đầu tư và thị trường. Việc sử dụng các quy định thường là cần thiết để giải quyết các hình thức gây hại của hành vi không bền vững bằng cách tạo ra tiêu chuẩn tối thiểu hoặc cấm hoàn toàn các hoạt động nhất định. Đặc biệt, việc đặt ra các tiêu chuẩn sẽ có hiệu quả trong việc thúc đẩy thị trường hàng hóa và dịch vụ bền vững; từ đó tạo ra hiệu quả và kích thích đổi mới, đem lại tác động tích cực cho sự cạnh tranh. Tuy nhiên, các tiêu chuẩn có thể tạo ra thách thức về tiếp cận thị trường cho cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, đặc biệt là doanh nghiệp từ các nước đang phát triển. Do đó, sẽ rất quan trọng đối với các nước để cân bằng giữa bảo vệ môi trường thông qua việc sử dụng các tiêu chuẩn và các quy định khác về tiếp cận thị trường.

- Xây dựng năng lực, đào tạo chuyên môn là điều cần thiết để hỗ trợ quá trình chuyển đổi sang một nền kinh tế xanh:

Các nước khác nhau có những hoàn cảnh, khả năng nắm bắt các cơ hội kinh tế xanh và thực hiện các chính sách hỗ trợ khác nhau. Điều này thường ảnh hưởng đến sự sẵn sàng và khả năng phục hồi của nền kinh tế cũng như của dân số đối với sự thay đổi. Sự thay đổi hướng tới một nền kinh tế xanh đòi hỏi các chính phủ phải tăng cường năng lực phân tích những thách thức, xác định cơ hội, can thiệp ưu tiên, huy động nguồn lực, thực hiện chính sách và đánh giá tiến độ. Cần thiết phải có những chương trình đào tạo và nâng cao kỹ năng để chuẩn bị lực lượng lao động cho một quá trình chuyển đổi nền kinh tế xanh. Do đó, cần có các biện pháp hỗ trợ tạm thời để đảm bảo một sự chuyển tiếp đúng đắn cho những người lao động bị ảnh hưởng. Trong một số lĩnh vực, sẽ cần thiết phải hỗ trợ để chuyển công nhân sang những công việc mới. Tại các nước đang phát triển, tổ chức liên chính phủ, tổ chức tài chính quốc tế, các tổ chức phi chính phủ, khu vực tư nhân và cộng đồng quốc tế nói chung có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc cung cấp hỗ trợ kỹ thuật và tài chính để tạo thuận lợi cho quá trình chuyển đổi nền kinh tế xanh.

- Tăng cường quản trị quốc tế có thể hỗ trợ các chính phủ thúc đẩy một nền kinh tế xanh:

Các hiệp định đa phương về môi trường đã thiết lập các khuôn khổ pháp lý và thể chế giải quyết những thách thức môi trường toàn cầu, có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hoạt động kinh tế xanh. Ví dụ, Nghị định thư Montreal về các chất làm suy giảm tầng ozone, dẫn đến sự phát triển của một ngành công nghiệp tập trung vào tiêu hủy và thay thế các chất gây cạn kiệt ozone. Hệ thống giao dịch quốc tế cũng có thể ảnh hưởng đáng kể đối với hoạt động kinh tế xanh, hệ thống này cho phép hoặc cản trở dòng chảy của hàng hóa, công nghệ và đầu tư xanh. Nếu các nguồn tài nguyên được đánh giá đúng đắn ở mức độ quốc gia thì chế độ thương mại quốc tế cho phép các nước khai thác bền vững lợi thế so sánh các nguồn tài nguyên thiên nhiên; đem lại lợi ích cho cả các nước xuất và nhập khẩu. Cuối cùng, vai trò tích cực của các chính phủ trong quá trình đàm phán quốc tế, chẳng hạn như tại Hội nghị Liên hợp quốc về Phát triển bền vững năm 2012 (Rio +20) và trong nhóm công tác quản lý môi trường của Liên hợp quốc về Kinh tế Xanh, có thể giúp thúc đẩy sự gắn kết và hợp tác trong quá trình “xanh hóa” các nền kinh tế.

Giải pháp nào cho nền kinh tế xanh tại Việt Nam ?

- Quan điểm nền tảng:

Tăng trưởng xanh là một nội dung quan trọng của Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 nhằm bảo đảm phát triển kinh tế theo hướng nhanh, hiệu quả và bền vững, đồng thời góp phần giảm nhẹ và phòng chống tác động của biến đổi khí hậu trong giai đoạn hiện nay.

Việt Nam vừa ban hành Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, thời kỳ 2011 – 2020 và tầm nhìn đến năm 2050, nhằm thúc đẩy quá trình tái cơ cấu nền kinh tế để tiến tới việc sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, giảm phát thải khí nhà kính thông qua nghiên cứu và áp dụng công nghệ hiện đại, phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng để nâng cao hiệu quả nền kinh tế, ứng phó với biến đổi khí hậu, góp phần xóa đói giảm nghèo, và tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế một cách bền vững.

- Mục tiêu tổng quát và cụ thể:

Mục tiêu tổng quát của Chiến lược tăng trưởng xanh là “Thay đổi mô hình tăng trưởng kinh tế theo hướng tận dụng lợi thế so sánh một cách chủ động và sáng tạo, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế”. Mục tiêu cụ thể là:

+ Tái cấu trúc nền kinh tế và hoàn thiện thể chế theo hướng khuyến khích các ngành kinh tế sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên với giá trị gia tăng cao, hạn chế tiến tới xóa bỏ những ngành sử dụng lãng phí tài nguyên thiên nhiên, gây ô nhiễm môi trường;

+ Nghiên cứu, ứng dụng rộng rãi công nghệ hiện đại nhằm sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, giảm phát thải khí nhà kính, góp phần ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu;

+ Nâng cao đời sống nhân dân thông qua việc tạo thêm việc làm từ các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ xanh và cải thiện chất lượng cuộc sống thông qua việc xây dựng hạ tầng xanh, lối sống thân thiện với môi trường.

Trên cơ sở đó, sẽ nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh nền kinh tế trong điều kiện mới, thực hiện việc rút ngắn khoảng cách phát triển với chất lượng tăng trưởng cao và bền vững.

- Nhiệm vụ và giải pháp:

+ Nhiệm vụ:

Để đạt được mục tiêu như trên, các hoạt động tăng trưởng xanh trong thời gian sắp tới sẽ tập trung vào 3 nhóm nhiệm vụ sau: i) Giảm cường độ phát thải nhà kính (tính trên đơn vị GDP) và tăng tỷ trọng sử dụng năng lượng tái tạo; ii) Xanh hóa sản xuất: tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng phát triển sâu, giảm sử dụng tài nguyên thiên nhiên, tăng cường các ngành công nghiệp sinh thái và dịch vụ môi trường, đổi mới công nghệ; iii) Xanh hóa lối sống và tiêu dùng bền vững: xây dựng lối sống hòa hợp với môi trường vốn đã là truyền thống lâu đời của các dân tộc Việt Nam. Kết hợp nếp sống đẹp truyền thống với những phương tiện mới mà nền văn minh hiện đại mang lại sẽ tạo nên đời sống tiện nghi, chất lượng cao mang đậm bản sắc dân tộc cho xã hội Việt Nam hiện đại.

 + Giải pháp:

Chính phủ cần thiết kế và xây dựng những kế hoạch xanh cho từng tỉnh chứ không thể tiếp tục lặp lại những quy hoạch điều chỉnh chủ yếu tập trung vào những công trình hạ tầng kĩ thuật dàn trải mà không tính đến hiệu năng kinh tế, thậm chí là lãng phí nguồn lực, gây tụt hậu xa hơn về kinh tế. Đồng thời, Chính phủ cần tái cấu trúc các lĩnh vực năng lượng, nguồn nước, công nghiệp, hạ tầng kĩ thuật, xây dựng và đô thị, giao thông vận tải theo hướng xã hội hóa các công đoạn giản đơn, mang tính hiệu quả và cạnh tranh cao.

 Cần tăng cường năng lực cho bộ máy quản lý nhà nước các cấp về kĩ năng phân tích thách thức, xác định cơ hội, đặt ưu tiên cho các dự án, nguồn lực thực hiện chính sách và đánh giá hiệu quả các mặt của dự án xanh. Tiến đến đào tạo đội ngũ chuyên trách tiếp cận với kinh tế xanh, tăng trưởng xanh thông qua phương pháp đo lường và hoạch toán xanh (hoạch toán tài sản toàn diện)…

 Các địa phương cần thiết kế và xây dựng lại những mô hình phát triển phức hợp, có kết hợp bốn chức năng xanh (xanh hóa kinh tế nông thôn, xây dựng nông thôn mới qua một chương trình quốc gia về nhà cửa cho nông dân, đem lại các tiện nghi hiện đại về hạ tầng xã hội (điện, đường, trường, trạm ứng dụng công nghệ sinh học và môi trường), phát huy hệ thống tín dụng vi mô nhằm kích hoạt chuyển dịch sang tăng trưởng xanh ở các địa bàn nông thôn.

  Đẩy mạnh xanh hóa sản xuất thông qua ưu tiên được cụ thể hóa bằng các khung chính sách và kế hoạch hành động phát triển năng lượng tái tạo, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên, phát triển công nghiệp sạch, kiến tạo công nghệ xanh. Ngân sách nhà nước phải ưu tiên đầu tư cho các dự án đem lại phúc lợi kinh tế, xã hội cao, khuyến khích đầu tư, mua sắm công nghệ của thị trường xanh.

   Cần xây dựng lộ trình định cư xanh thông qua các chính sách ưu tiên phát triển nhà cửa cho các giới có thu nhập thấp ở nông thôn và thành thị. Chương trình này sẽ tạo nguồn việc mới, giải quyết hàng tồn kho, phục hồi nền kinh tế, góp phần lành mạnh hóa thị trường bất động sản.

  Người dân vừa là lực lượng chính thực hiện chính sách kinh tế xanh dưới vai trò nguồn lao động xanh, vừa là người tiêu dùng thông minh, dẫn dắt và định hướng nền kinh tế xanh của đất nước. Do vậy, họ cần trang bị và tự trang bị để xanh hóa lối sống, nâng cao ý thức và trách nhiệm cộng đồng về môi sinh.

Có thể nói, phát triển nền kinh tế xanh là lựa chọn sống còn của nền kinh tế nước ta trong ngắn và dài hạn. Muốn vậy, chúng ta cần chú ý một cách thoả đáng tới cách “tiếp cận xanh”, cách tiếp cận dựa trên hệ sinh thái để đảm bảo và tăng cường khả năng chống chịu – thích ứng cho tất cả các hệ thống, bao gồm cả các hệ sinh thái tự nhiên – chống chịu – thích ứng sinh thái, và các hệ sinh thái – xã hội – chống chịu – thích ứng sinh thái – xã hội theo nguyên tắc hài hoà với tự nhiên. Vì suy cho cùng, phát triển bền vững thực chất là bền vững về mặt sinh thái; Tác động của biến đổi khí hậu, về thực chất, là tác động lên các thành phần của hệ sinh thái và lên toàn hệ sinh thái nói chung; và ứng phó với biến đổi khí hậu về nguyên tắc cũng là các giải pháp phục hồi, duy trì tính cân bằng của hệ sinh thái, làm tăng cường sức khoẻ và tính chống chịu – thích ứng của hệ sinh thái.

ThS. Vũ Văn Nâm

Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật

 

 

Bình luận