Theo dòng lịch sử các đại hội của Đảng Cộng sản Việt Nam (1930-2011)*

Ngày đăng: 07/02/2013 - 09:02

HỘI NGHỊ THÀNH LẬP

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

 Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam họp từ ngày 6-1 đến trước ngày 8-2-1930, tại Cửu Long (Hồng Kông - Trung Quốc), dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Dự Hội nghị có 2 đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng và 2 đại biểu của An Nam Cộng sản Đảng. Do chưa có liên hệ nên Nguyễn Ái Quốc không triệu tập Đông Dương Cộng sản liên đoàn tham gia Hội nghị.

Với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc tuyên bố lý do triệu tập và nêu chương trình nghị sự của Hội nghị. Người đã vạch rõ sai lầm của các tổ chức đảng và đề nghị hợp nhất thành một đảng duy nhất. Các đại biểu đã nhất trí hợp nhất Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng thành Đảng Cộng sản Việt Nam; thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng và các điều lệ vắn tắt của công hội, nông hội, đoàn thanh niên, hội phụ nữ, hội phản đế đồng minh và hội cứu tế.

Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam mang tầm vóc lịch sử của Đại hội thành lập Đảng. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo được Hội nghị thông qua là một cương lĩnh cách mạng đúng đắn và sáng tạo, nhuần nhuyễn quan điểm giai cấp, thấm đẫm tính dân tộc và tính nhân văn.

Sau khi kết thúc Hội nghị, ngày 8-2-1930, các đại biểu về nước đã tích cực thực hiện kế hoạch hợp nhất các cơ sở đảng ở trong nước, lập ra Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng gồm có bảy uỷ viên do đồng chí Trịnh Đình Cửu đứng đầu.

Thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 16-2-1930, Nguyễn Ái Quốc đã ra Lời kêu gọi công, nông, binh cùng toàn thể đồng bào đứng dậy theo Đảng đấu tranh giành độc lập, tự do.

Ngày 24-2-1930, theo yêu cầu của Đông Dương Cộng sản liên đoàn, Ban Chấp hành Trung ương lâm thời đã họp và ra quyết nghị chấp nhận Đông Dương Cộng sản liên đoàn gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Việc thống nhất các tổ chức đảng thành một Đảng Cộng sản thống nhất ở Việt Nam đã hoàn tất.

Từ ngày 14 đến ngày 31-10-1930, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp Hội nghị lần thứ nhất tại Hương Cảng do đồng chí Trần Phú chủ trì. Hội nghị quyết định đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương, thông qua dự án Luận cương chánh trị của Đảng Cộng sản Đông Dương, Án nghị quyết về tình hình hiện tại ở Đông Dương và nhiệm vụ cần kíp của Đảng, các nghị quyết về công nhân vận động, về nông dân vận động, về cộng sản thanh niên vận động, về phụ nữ vận động, về quân đội vận động, về vấn đề cứu tế, về Điều lệ của Đảng Cộng sản Đông Dương và điều lệ của các tổ chức quần chúng. Hội nghị bầu Ban Chấp hành Trung ương do đồng chí Trần Phú làm Tổng Bí thư.

ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC

LẦN THỨ NHẤT CỦA ĐẢNG

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất của Đảng họp ở phố Quan Công - Ma Cao (Trung Quốc) từ ngày 27 đến ngày 31-3-1935. Dự Đại hội có 13 đại biểu thuộc các đảng bộ trong nước và tổ chức của Đảng hoạt động ở ngoài nước, trong đó có 2 đại biểu của Đảng bộ Bắc Kỳ, 2 đại biểu của Đảng bộ Trung Kỳ, 3 đại biểu của Đảng bộ Nam Đông Dương, 1 đại biểu Đảng bộ Lào, 3 đại biểu cho các đảng viên hoạt động ở Thái Lan, 2 đại biểu của Ban Chỉ huy ở ngoài.

Đại hội tập trung bàn thảo tình hình trong nước và quốc tế, khẳng định thắng lợi của cuộc đấu tranh khôi phục phong trào cách mạng và hệ thống tổ chức của Đảng.

Đại hội nêu ra ba nhiệm vụ chủ yếu trong thời gian trước mắt của toàn Đảng:

- Củng cố và phát triển Đảng, tăng cường phát triển lực lượng Đảng vào các xí nghiệp, đồn điền, hầm mỏ, đường giao thông quan trọng, biến mỗi xí nghiệp thành một cơ sở vững chắc của Đảng; đồng thời đưa nông dân lao động và trí thức cách mạng đã trải qua thử thách vào Đảng. Để bảo đảm sự thống nhất về tư tưởng và hành động, các đảng bộ cần tăng cường phê bình và tự phê bình, đấu tranh trên cả hai mặt chống "tả" khuynh và hữu khuynh, giữ vững kỷ luật của Đảng.

- Đẩy mạnh cuộc vận động thu phục quần chúng, chú ý các dân tộc thiểu số, phụ nữ, binh lính..., củng cố và phát triển các tổ chức quần chúng. Đại hội chỉ rõ: "Đảng mạnh là căn cứ vào ảnh hưởng và thế lực của Đảng trong quần chúng... Muốn đưa cao trào cách mạng mới lên trình độ cao tới toàn quốc vũ trang bạo động, đánh đổ đế quốc phong kiến, lập nên chính quyền Xôviết thì trước hết cần phải thâu phục quảng đại quần chúng. Thâu phục quảng đại quần chúng là một nhiệm vụ trung tâm căn bản cần kíp của Đảng hiện thời".

- Mở rộng tuyên truyền chống đế quốc, chống chiến tranh, ủng hộ Liên Xô, thành trì của cách mạng thế giới và ủng hộ cách mạng Trung Quốc...

Đại hội thông qua nghị quyết chính trị của Đảng, các nghị quyết về vận động công nhân, vận động nông dân, vận động thanh niên, phụ nữ, binh lính, về mặt trận phản đế, về đội tự vệ, về các dân tộc thiểu số... và Điều lệ của Đảng, điều lệ của các tổ chức quần chúng của Đảng.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 13 uỷ viên, Ban Thường vụ gồm 5 uỷ viên. Đồng chí Lê Hồng Phong được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng. Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã cử lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc làm đại diện của Đảng Cộng sản Đông Dương bên cạnh Quốc tế Cộng sản.

Từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất của Đảng đến Cách mạng Tháng Tám thành công, Ban Chấp hành Trung ương đã phải lập đi lập lại nhiều lần do sự đánh phá ác liệt của địch. Tiếp theo đồng chí Lê Hồng Phong, trong nhiệm kỳ khóa I, ba đồng chí đã được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng là: Hà Huy Tập (6-1936), Nguyễn Văn Cừ (3-1938) và Trường Chinh (5-1941). 

ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC

LẦN THỨ II CỦA ĐẢNG

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng họp tại xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta đang bước sang một giai đoạn mới. Sau những ngày họp trù bị, Đại hội họp công khai từ ngày 11 đến ngày 19-2-1951. Dự Đại hội có 158 đại biểu chính thức, 53 đại biểu dự khuyết thay mặt cho hơn 766.000 đảng viên trong toàn Đảng.

Đại hội đã nghiên cứu và thảo luận Báo cáo chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Báo cáo Hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển dân chủ nhân dân, tiến tới chủ nghĩa xã hội của đồng chí Trường Chinh, Báo cáo về tổ chức và Điều lệ Đảng của đồng chí Lê Văn Lương và các báo cáo bổ sung về Mặt trận dân tộc thống nhất, chính quyền dân chủ nhân dân, quân đội nhân dân, kinh tế tài chính, văn hoá văn nghệ...

Đại hội vạch rõ nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng Việt Nam là tiêu diệt thực dân Pháp và đánh bại can thiệp Mỹ, giành thống nhất, độc lập hoàn toàn, bảo vệ hoà bình thế giới. Để hoàn thành nhiệm vụ đó, Đảng phải tăng cường lực lượng vũ trang, củng cố các đoàn thể quần chúng, đẩy mạnh thi đua ái quốc, mở rộng khối đoàn kết dân tộc, tăng cường đoàn kết quốc tế, đẩy mạnh xây dựng Đảng thành "một đảng to lớn, chắc chắn, mạnh mẽ, trong sạch, cách mạng triệt để".

Đại hội quyết nghị sẽ thành lập ở Lào và Campuchia mỗi nước một Đảng Cộng sản cho phù hợp với tình hình cách mạng từng nước. Ở Việt Nam sẽ đưa Đảng ra hoạt động công khai với tên gọi mới là Đảng Lao động Việt Nam, thông qua Chính cương, Tuyên ngôn và Điều lệ của Đảng.

Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Trung ương mới gồm 19 uỷ viên chính thức, 10 uỷ viên dự khuyết. Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã bầu ra Bộ Chính trị gồm có 7 uỷ viên chính thức. Chủ tịch Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Đảng, đồng chí Trường Chinh được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Trong nhiệm kỳ khoá II, Ban Chấp hành Trung ương đã họp 18 hội nghị Trung ương. Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 10 (25-8 - 5-10-1956) Ban Chấp hành Trung ương đã cử Chủ tịch Hồ Chí Minh kiêm chức Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng thay đồng chí Trường Chinh xin từ chức Tổng Bí thư vì những sai lầm trong công tác cải cách ruộng đất.

ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC

LẦN THỨ III CỦA ĐẢNG

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng họp tại Thủ đô Hà Nội, trong bối cảnh đất nước còn tạm bị chia làm hai miền với hai chế độ chính trị - xã hội khác nhau. Sau những ngày họp nội bộ, Đại hội đã họp công khai từ ngày 5 đến ngày 10-9-1960. Dự Đại hội có 525 đại biểu chính thức và 51 đại biểu dự khuyết thay mặt hơn 50 vạn đảng viên trong cả nước, trong đó 50% số đại biểu là các đảng viên đã tham gia cách mạng từ khi Đảng còn hoạt động bí mật. Tất cả các đại biểu đã trải qua cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Nhiều đại biểu là anh hùng và chiến sĩ thi đua, là đại biểu đại diện cho các dân tộc thiểu số, là nhà thơ, nhà văn, nhà giáo, nhà khoa học. Dự Đại hội còn có đại biểu của Đảng Xã hội, Đảng Dân chủ và các đoàn thể quần chúng trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Gần 20 đoàn đại biểu quốc tế đến dự Đại hội.

Đại hội đã thông qua Báo cáo chính trị, Báo cáo về nhiệm vụ và phương hướng kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, Báo cáo về việc sửa đổi Điều lệ Đảng, Nghị quyết về nhiệm vụ và đường lối của Đảng trong giai đoạn mới, Điều lệ Đảng (sửa đổi) và Nghị quyết về ngày thành lập Đảng.

Đại hội xác định nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới là đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà. Cách mạng ở miền Bắc và ở miền Nam thuộc hai chiến lược khác nhau. Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam và đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam giữ vai trò quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miềnNam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.

Đại hội đề ra đường lối chung trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc là: Đoàn kết toàn dân, phát huy truyền thống của nhân dân ta và đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc ở miền Bắc, củng cố miền Bắc trở thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà.

Đại hội chủ trương kiên quyết giữ vững đường lối hoà bình thống nhất nước nhà, song phải luôn đề cao cảnh giác sẵn sàng đối phó với mọi tình thế.

Đại hội chủ trương tăng cường nhà nước dân chủ nhân dân, củng cố sự nhất trí về chính trị và tinh thần của nhân dân miền Bắc, đoàn kết quốc tế và đẩy mạnh xây dựng Đảng.

Đại hội nêu lên một số bài học kinh nghiệm lớn có ý nghĩa quan trọng đối với cách mạng ViệtNam.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 43 uỷ viên chính thức, 28 uỷ viên dự khuyết. Ban Chấp hành Trung ương đã bầu Bộ Chính trị gồm 11 uỷ viên chính thức, 2 uỷ viên dự khuyết. Chủ tịch Hồ Chí Minh được bầu lại làm Chủ tịch Đảng, đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC

LẦN THỨ IV CỦA ĐẢNG

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng được triệu tập trong bối cảnh nước nhà đã hoàn toàn độc lập, thống nhất sau nhiều năm chiến tranh khốc liệt. Đại hội họp trù bị từ ngày 29-11 đến ngày 10-12-1976. Từ ngày 14 đến ngày 20-12-1976, Đại hội họp công khai tại Thủ đô Hà Nội. Tham dự Đại hội có 1.008 đại biểu thay mặt hơn 1.550.000 đảng viên của 38 đảng bộ tỉnh, thành và cơ quan trực thuộc trung ương trong cả nước. Đến dự Đại hội có 29 đoàn đại biểu của các Đảng Cộng sản và Công nhân, phong trào giải phóng dân tộc và các tổ chức quốc tế.

Đại hội đã thông qua Báo cáo chính trị, Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976-1980), Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng.

Đại hội tổng kết thắng lợi của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, rút ra một số bài học kinh nghiệm lớn và nêu lên những đặc điểm chủ yếu của nước ta trong thời kỳ mới.

Đại hội xác định đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa và vạch ra đường lối kinh tế ở nước ta nhằm mục tiêu "làm cho nước Việt Nam trở thành một nước xã hội chủ nghĩa có kinh tế công - nông nghiệp hiện đại, văn hoá và khoa học, kỹ thuật tiên tiến, quốc phòng vững mạnh, có đời sống văn minh, hạnh phúc".

Đại hội vạch rõ phải đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.

Đại hội quyết định phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu của kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976-1980).

Đại hội xác định nhiệm vụ, phương châm và biện pháp công tác xây dựng Đảng trong giai đoạn mới, bảo đảm cho Đảng lãnh đạo nhân dân cả nước tiến hành thắng lợi cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Đại hội nêu rõ cần ra sức tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi để nhanh chóng hàn gắn những vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, phát triển văn hoá, khoa học - kỹ thuật, củng cố quốc phòng.

Đại hội quyết định đổi tên Đảng Lao động Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam và thông qua Điều lệ của Đảng. Điều lệ đã rút gọn 10 nhiệm vụ của đảng viên thành 5 nhiệm vụ, đặt lại chức Tổng Bí thư thay cho chức Bí thư thứ nhất trước đây, quy định nhiệm kỳ của Ban Chấp hành Trung ương là 5 năm.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 101 uỷ viên chính thức và 32 uỷ viên dự khuyết. Ban Chấp hành Trung ương đã bầu Bộ Chính trị gồm có 14 uỷ viên chính thức và 3 uỷ viên dự khuyết. Đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng là đại hội toàn thắng của sự nghiệp giải phóng dân tộc, là đại hội đưa cả nước tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa. Đại hội đã vạch ra đường lối chung và đường lối xây dựng kinh tế - những vấn đề hết sức quan trọng của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.

ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC

LẦN THỨ V CỦA ĐẢNG

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng được tiến hành tại Thủ đô Hà Nội. Đại hội họp nội bộ từ ngày 15 đến ngày 24-3-1982 và họp công khai từ ngày 27 đến ngày 31-3-1982. Tham dự Đại hội có 1.033 đại biểu thay mặt hơn 1.727.000 đảng viên hoạt động trong 35.146 đảng bộ cơ sở. Đến dự Đại hội có 47 đoàn đại biểu quốc tế.

Đại hội đã thông qua Báo cáo chính trị, Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ và những mục tiêu chủ yếu về kinh tế và xã hội trong 5 năm 1981-1985, Báo cáo về xây dựng Đảng.

Trên cơ sở phân tích hiện trạng của đất nước, những biến động của tình hình quốc tế và âm mưu của các thế lực thù địch chống lại Việt Nam, Đại hội xác định trong giai đoạn mới của cách mạng, Đảng phải lãnh đạo nhân dân ta thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Đại hội khẳng định tiếp tục thực hiện đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa và đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng, vạch ra chiến lược kinh tế - xã hội, những kế hoạch phát triển, những chủ trương, chính sách và biện pháp thích hợp trong từng chặng đường.

Đại hội đã đánh giá một cách khách quan thành tựu và hạn chế trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, chỉ ra nguyên nhân chủ quan gây nên sự sa sút của nền kinh tế là những khuyết điểm, sai lầm về lãnh đạo và quản lý.

Đại hội đưa ra khái niệm chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ và xác định trong chặng đường này, nội dung chính của công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là "coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, kết hợp nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng trong một cơ cấu hợp lý".

Đại hội thông qua những nhiệm vụ văn hoá, xã hội; tăng cường nhà nước xã hội chủ nghĩa, phát động phong trào cách mạng của quần chúng; chính sách đối ngoại; nhiệm vụ nâng cao sức chiến đấu của Đảng.

Đại hội đã thông qua Điều lệ Đảng (sửa đổi) và bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 116 uỷ viên chính thức, 36 uỷ viên dự khuyết. Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã bầu Bộ Chính trị gồm 13 uỷ viên chính thức, 2 ủy viên dự khuyết. Đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Trong nhiệm kỳ khoá V, Ban Chấp hành Trung ương đã tiến hành 12 hội nghị Trung ương. Tại phiên họp đặc biệt ngày 14-7-1986, Ban Chấp hành Trung ương đã bầu đồng chí Trường Chinh giữ chức Tổng Bí thư thay đồng chí Lê Duẩn đã từ trần ngày 10-7-1986.

ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC

LẦN THỨ VI CỦA ĐẢNG

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng được triệu tập trong bối cảnh đất nước ta đang khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng. Đại hội họp nội bộ từ ngày 5 đến ngày 14-12-1986. Từ ngày 15 đến ngày 18-12-1986, Đại hội họp công khai. Dự Đại hội có 1.129 đại biểu thay mặt gần 1,9 triệu đảng viên trong toàn Đảng. Đến dự Đại hội có 35 đoàn đại biểu quốc tế.

Đại hội đã thông qua Báo cáo chính trị, Báo cáo về phương hướng, mục tiêu chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 1986-1990, Nghị quyết về sửa đổi, bổ sung một số điều cụ thể trong Điều lệ Đảng.

Với tinh thần "nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật", Đại hội khẳng định những thành tích đã đạt được, nghiêm khắc vạch ra những sai lầm, khuyết điểm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, cụ thể hoá một bước đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cơ sở nâng cao nhận thức về thời kỳ quá độ.

Trên cơ sở thực tiễn cách mạng của 10 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đại hội nêu lên bốn bài học kinh nghiệm có ý nghĩa hết sức quan trọng:

"Một, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng "lấy dân làm gốc", xây dựng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Hai, Đảng luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Ba, phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới. Bốn, phải chăm lo xây dựng Đảng ngang tầm với một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa".

Đại hội xác định: "Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo".

Đại hội khẳng định phải "đề cao cảnh giác, tăng cường khả năng quốc phòng và an ninh của đất nước, quyết đánh thắng kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, bảo đảm chủ động trong mọi tình huống để bảo vệ Tổ quốc".

Đại hội quyết định bổ sung và sửa đổi một số điểm cụ thể trong Điều lệ Đảng cho phù hợp với tình hình mới và bầu Ban Chấp hành Trung ương khoá VI, gồm có 124 uỷ viên chính thức và 49 uỷ viên dự khuyết. Ban Chấp hành Trung ương đã bầu Bộ Chính trị gồm có 13 uỷ viên chính thức và 1 uỷ viên dự khuyết. Đồng chí Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng và Lê Đức Thọ được giao trách nhiệm làm Cố vấn cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC

LẦN THỨ VII CỦA ĐẢNG

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng tiến hành trong bối cảnh quốc tế và trong nước đang có những diễn biến phức tạp. Đại hội họp nội bộ từ ngày 17 đến ngày 22-6-1991. Từ ngày 24 đến ngày 27-6-1991, Đại hội họp công khai. Dự Đại hội có 1.176 đại biểu đại diện cho hơn hai triệu đảng viên ở các lĩnh vực hoạt động khác nhau từ mọi miền của đất nước và đang công tác ở nước ngoài. Đến dự Đại hội còn có đoàn đại biểu của Đảng Cộng sản Liên Xô, đoàn đại biểu của Đảng Nhân dân cách mạng Lào, đoàn đại biểu của Đảng Nhân dân cách mạng Campuchia, đoàn đại biểu của Đảng Cộng sản Cuba. Dự khai mạc Đại hội còn có đại biểu Đảng Cộng sản Nhật Bản thường trú tại Hà Nội, các vị trong đoàn ngoại giao, đại diện các tổ chức quốc gia và quốc tế, đại diện các tổ chức phi chính phủ tại Hà Nội.

Đại hội tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, đánh giá những kết quả đã đạt được, những vấn đề mới nảy sinh, chỉ ra những ưu điểm, khuyết điểm, nguyên nhân và những kinh nghiệm tiến hành đổi mới trên các lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã hội.

Đại hội đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000, Báo cáo xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng, Điều lệ Đảng (sửa đổi).

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã đánh giá tổng quát quá trình cách mạng Việt Nam từ ngày thành lập Đảng, đưa ra quan niệm tổng quát về xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta sẽ xây dựng và những phương hướng cơ bản để phấn đấu đạt tới mục tiêu đó.

Đại hội khẳng định, cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và nhân dân ta.

Đại hội xác định, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể tạo thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.

Cùng với đẩy mạnh phát triển kinh tế, Đại hội khẳng định xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là phương hướng chiến lược lớn, cần chú trọng đặc biệt.

Với chính sách đối ngoại rộng mở, Đại hội chủ trương hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị, xã hội khác nhau trên cơ sở những nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình. Đại hội khẳng định: "Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển".

Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm có 146 uỷ viên. Ban Chấp hành Trung ương đã bầu Bộ Chính trị gồm 13 uỷ viên. Đồng chí Đỗ Mười được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

HỘI NGHỊ ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC

GIỮA NHIỆM KỲ KHÓA VII CỦA ĐẢNG

Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đảng họp tại Hà Nội từ ngày 20 đến ngày 25-1-1994. Dự Hội nghị có 647 đại biểu của 64  đảng bộ trong cả nước.

Hội nghị đã kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội VII và tổng kết một bước thực tiễn đổi mới từ sau Đại hội VI nhằm làm sáng tỏ thêm một số vấn đề trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, xác định những chủ trương và giải pháp lớn để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội VII, đưa sự nghiệp cách mạng của nước ta tiếp tục tiến lên.

Hội nghị xác định mục tiêu tổng quát của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là phấn đấu vì "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh".

Hội nghị khẳng định đường lối, chủ trương, chính sách lớn của Đảng về đổi mới là đúng đắn, các bài học kinh nghiệm bước đầu về đổi mới mà Đại hội VII nêu lên cần được tiếp tục vận dụng trong thực tế. Hội nghị chỉ rõ những cơ hội và thách thức lớn trước mắt của cách mạng Việt Nam.

Những thách thức lớn là: nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới do điểm xuất phát thấp, nhịp độ tăng trưởng chưa cao và chưa vững chắc, lại phải đi lên trong môi trường cạnh tranh gay gắt; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa nếu không khắc phục được những lệch lạc trong chủ trương, chính sách và chỉ đạo thực hiện; nguy cơ về nạn tham nhũng và tệ quan liêu; nguy cơ "diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch.

Những cơ hội lớn là: Đảng ta có đường lối cách mạng đúng đắn, đoàn kết nhất trí, nhân dân ta cần cù và thông minh, giàu lòng yêu nước, có bản lĩnh và ý chí cách mạng kiên cường, tin tưởng ở sự lãnh đạo của Đảng, các lực lượng vũ trang tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta, những thành tựu của công cuộc đổi mới đang tạo ra thế và lực mới, sự phát triển của cách mạng khoa học - kỹ thuật, xu thế mở rộng quan hệ hợp tác phát triển trên thế giới và trong khu vực đem lại cho chúng ta khả năng thêm những nguồn lực quan trọng.

Hội nghị xác định, trong những năm còn lại của nhiệm kỳ, phải động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đồng tâm nhất trí, nỗ lực vượt bậc, nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường, mở rộng hợp tác quốc tế, thực hành cần kiệm liêm chính, ra sức phát huy thuận lợi, nắm bắt thời cơ, vượt qua thử thách, thực hiện thắng lợi mục tiêu tổng quát mà Đại hội VII đã đề ra, thúc đẩy nhanh hơn nhịp độ thực hiện những mục tiêu của Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000.

Hội nghị quyết định bầu bổ sung 20 uỷ viên Trung ương để thay thế cho các đồng chí vì lý do sức khoẻ đã tự nguyện rút khỏi Ban Chấp hành Trung ương và các đồng chí bị kỷ luật.

ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC

LẦN THỨ VIII CỦA ĐẢNG

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng được tiến hành trong điều kiện đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Đại hội họp nội bộ từ ngày 22 đến ngày 26-6-1996. Từ ngày 28-6-1996 đến ngày 1-7-1996, Đại hội họp công khai. Dự Đại hội có 1.198 đại biểu thay mặt cho hơn hai triệu đảng viên. Gần 40 đoàn đại biểu quốc tế đại diện các đảng anh em và bầu bạn trên thế giới được mời tham dự Đại hội.

Đại hội thảo luận và thông qua Báo cáo chính trị, Báo cáo phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 1996-2000, Điều lệ Đảng (bổ sung, sửa đổi).

Đại hội khẳng định nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, mặc dù một số mặt còn chưa vững chắc. Những thành tựu bước đầu của công cuộc đổi mới đã tạo tiền đề cần thiết để đất nước ta chuyển sang một thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Đại hội nêu rõ cần "tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá... ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp" vào năm 2020, xác định các định hướng phát triển những lĩnh vực chủ yếu trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Đại hội vạch ra phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 1996-2000, nêu nhiệm vụ tổng quát, những tư tưởng chỉ đạo, các chương trình và lĩnh vực phát triển.

Đại hội khẳng định, xây dựng Đảng ngang tầm đòi hỏi của thời kỳ mới là một vấn đề có ý nghĩa quyết định thành công của cách mạng trên con đường đổi mới. Đảng phải tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao hơn nữa năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mình, khắc phục cho được các biểu hiện tiêu cực và yếu kém.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm có 170 uỷ viên chính thức. Ban Chấp hành Trung ương đã bầu Bộ Chính trị gồm 19 uỷ viên. Đồng chí Đỗ Mười được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng là các đồng chí Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng, Võ Chí Công.

Trong nhiệm kỳ khoá VIII, Ban Chấp hành Trung ương đã tiến hành 12 hội nghị Trung ương. Tại Hội nghị Trung ương lần thứ tư (12-1997), Ban Chấp hành Trung ương đã chấp thuận đề nghị của đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười về việc chuyển giao chức vụ Tổng Bí thư và bầu đồng chí Lê Khả Phiêu làm Tổng Bí thư của Đảng.

ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC

LẦN THỨ IX CỦA ĐẢNG

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX là đại hội đầu tiên trong thế kỷ XXI của Đảng. Sau những ngày họp nội bộ, từ ngày 19 đến ngày 24-4-2001, Đại hội họp công khai với sự tham dự của 1.168 đại biểu đại diện cho 2.479.717 đảng viên trong toàn Đảng. Dự Đại hội có 34 đoàn đại biểu của các đảng và tổ chức quốc tế.

Đại hội tập trung thảo luận, đánh giá chặng đường hơn 70 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam của Đảng, tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VII, 15 năm đổi mới, 10 năm thực hiện Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội.

Đại hội đã thông qua Báo cáo chính trị, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010, Phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2001-2005 và Điều lệ Đảng (bổ sung, sửa đổi).

Đại hội đi sâu phân tích những đặc điểm của thế kỷ XX và dự báo tình hình thế giới những thập kỷ đầu thế kỷ XXI, khẳng định những thắng lợi to lớn mà nhân dân ta đã giành được trong hơn 70 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Đại hội chỉ rõ, nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức, phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ mới là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và nhân dân ta.

Đại hội đánh giá sâu sắc, đầy đủ và toàn diện hơn vai trò, vị trí của tư tưởng Hồ chí Minh, khẳng định nền kinh tế thị trường là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, coi việc "phát huy sức mạnh toàn dân tộc là một nhân tố rất cơ bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội". 

Đại hội xác định mục tiêu chung trong giai đoạn hiện nay là "độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".

Đại hội xác định mục tiêu tổng quát của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010 là đưa nước ta "ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại

ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC

LẦN THỨ X CỦA ĐẢNG

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X được triệu tập trong bối cảnh đất nước đã tiến hành đổi mới được 20 năm. Sau một ngày họp trù bị, từ ngày 18 đến ngày 25-4-2006, Đại hội họp chính thức, với sự tham dự của 1.176 đại biểu đại diện cho hơn 3,1 triệu đảng viên trong cả nước.

Đại hội có nhiều đổi mới về hình thức và nội  dung, dành nhiều thời gian để thảo luận, phân tích các văn kiện trình Đại hội cũng như những vấn đề còn nhiều ý kiến khác nhau. Lần đầu tiên, kể từ ngày thành lập Đảng, Đại hội không mời khách quốc tế tham dự. Một số phiên họp được truyền hình trực tiếp, hằng ngày đều có thông cáo báo chí cho toàn dân theo dõi.

 Đại hội tập trung thảo luận, tổng kết đánh giá 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IX, 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, kiểm điểm sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương khoá IX, rút ra những bài học chủ yếu của sự nghiệp đổi mới, quyết định phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010, đề ra phương hướng, nhiệm vụ xây dựng Đảng, bổ sung sửa đổi Điều lệ Đảng.

Đại hội đã thông qua Báo cáo chính trị, Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010, Báo cáo về công tác xây dựng Đảng và Điều lệ Đảng (sửa đổi, bổ sung)

Tổng kết, đánh giá 20 năm đổi mới, Đại hội khẳng định, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, công cuộc đổi mới đất nước đã đạt được những "thành tựu to lớn và có ý  nghĩa lịch sử".

Đại hội làm sáng tỏ hơn bản chất của Đảng và đưa ra cách diễn đạt mới về Đảng, xác định "Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam".

Đại hội bổ sung và phát triển một số nội dung của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên cả hai mặt: đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng và những phương hướng để đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Đại hội khẳng định đảng viên được làm kinh tế tư nhân không giới hạn về quy mô, miễn là chấp hành nghiêm túc đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và Điều lệ Đảng.

Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, chống tham nhũng, lãng phí quan liêu được Đại hội đặc biệt quan tâm, xác định là một nhiệm vụ trọng tâm trước mắt và lâu dài của Đảng. Đại hội chỉ rõ trong thời gian tới cần thực hiện một cách kiên quyết và đồng bộ công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Xử lý kiên quyết, kịp thời, công khai người tham nhũng, bất kể ở chức vụ nào, đương chức hay đã nghỉ hưu, tịch thu sung công tài sản có nguồn gốc từ tham nhũng.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 160 uỷ viên chính thức và 21 uỷ viên dự khuyết. Ban Chấp hành Trung ương đã bầu Bộ Chính trị gồm 14 uỷ viên. Đồng chí Nông Đức Mạnh được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

 ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC

 LẦN THỨ XI CỦA ĐẢNG

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI được triệu tập trong bối cảnh đất nước đã vượt qua ngưỡng của một nước thu nhập thấp, chuyển sang một giai đoạn phát triển mới. Sau một ngày họp nội bộ, Đại hội họp công khai từ ngày 12 đến ngày 19-1-2011. Dự Đại hội có 1.377 đại biểu thay mặt hơn 3,6 triệu đảng viên trong cả nước.

Đại hội kiểm điểm, đánh giá khách quan, toàn diện những thành tựu và yếu kém, khuyết điểm, rút ra những bài học kinh nghiệm qua việc thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng.

Đại hội tổng kết, đánh giá việc thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001-2010) và 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Đại hội thảo luận và nhất trí thông qua Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020, Phương hướng, nhiệm vụ chính trị 5 năm 2011-2015 và Điều lệ Đảng (bổ sung, sửa đổi).

Các văn kiện được thông qua tại Đại hội là sự tổng kết sâu sắc lý luận và thực tiễn 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (2001-2010) và 5 năm thực hiện phương hướng, nhiệm vụ kinh tế - xã hội (2006-2010), kết tinh trí tuệ, ý chí, nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân ta.

Đại hội khẳng định quyết tâm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Đại hội xác định giữ vững bản chất và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực trí tuệ, phẩm chất và đạo đức cách mạng, làm cho Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh, xứng đáng với niềm tin và sự mong đợi của nhân dân cả nước là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.

Đại hội "kêu gọi toàn Đảng, toàn quân, đồng bào ta ở trong nước cũng như ở ngoài nước, phát huy cao độ tinh thần yêu nước, ý chí tự lực tự cường, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, ra sức thi đua thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Đại hội, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, phát triển đất nước nhanh, bền vững, quyết tâm thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội".

Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI gồm 175 uỷ viên chính thức, 25 uỷ viên dự khuyết. Ban Chấp hành Trung ương đã bầu Bộ Chính trị gồm 14 uỷ viên. Đồng chí Nguyễn Phú Trọng được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

_________

ThS. Võ Văn Bé

Chú thích:

* Từ Hội nghị lần thứ nhất (10-1930) đến Đại hội II (2-1951) gọi là Đảng Cộng sản Đông Dương và từ Đại hội II đến Đại hội IV gọi là Đảng Lao động Việt Nam.

Bình luận