Thích ứng và giảm nhẹ biến đổi khí hậu đối với Việt Nam

Ngày đăng: 18/04/2013 - 14:04

Biến đổi khí hậu là một trong những thách thức lớn nhất đối với nhân loại trong thế kỷ XXI. Biến đổi khí hậu tác động nghiêm trọng đến sản xuất, đời sống và môi trường trên phạm vi toàn thế giới, làm thay đổi toàn diện và sâu sắc quá trình phát triển và an ninh toàn cầu như lương thực, nước, năng lượng; các vấn đề về an toàn xã hội, văn hóa, ngoại giao và thương mại.

Tác động của biến đổi khí hậu tới Việt Nam

Việt Nam là một trong những quốc gia bị tác động mạnh mẽ nhất do biến đổi khí hậu, đặc biệt là đồng bằng sông Cửu Long, một trong ba đồng bằng trên thế giới dễ bị tổn thương nhất bởi nước biển dâng. Nếu mực nước biển dâng cao 1m, khoảng 40% diện tích đồng bằng sông Cửu Long, 11% diện tích đồng bằng sông Hồng và 3% diện tích của các tỉnh khác thuộc vùng ven biển bị ngập, Thành phố Hồ Chí Minh bị ngập trên 20% diện tích; khoảng 10-12% dân số nước ta bị ảnh hưởng trực tiếp và tổn thất khoảng 10% GDP. Tác động của biến đổi khí hậu đối với nước ta là rất nghiêm trọng, là nguy cơ hiện hữu cho mục tiêu xóa đói, giảm nghèo, cho việc thực hiện các Mục tiêu Thiên niên kỷ và sự phát triển bền vững của đất nước.

Khu du tru sinh quyen Can Gio

Khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ

Do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, tần suất và cường độ thiên tai ngày càng gia tăng, gây ra nhiều tổn thất to lớn về người, tài sản, kết cấu hạ tầng về kinh tế, văn hóa, xã hội, tác động xấu đến môi trường. Trong 10 năm gần đây (2001-2010), các loại thiên tai như: bão, lũ, sạt lở đất, úng ngập, hạn hán, xâm nhập mặn và các thiên tai khác đã làm thiệt hại đáng kể về người và tài sản, giá trị thiệt hại về vật chất ước tính chiếm khoảng 1,5% GDP/năm.

Biến đổi khí hậu đe dọa nghiêm trọng đến an ninh lương thực và phát triển nông nghiệp như: thu hẹp diện tích đất nông nghiệp, đặc biệt là một phần đáng kể ở vùng đất thấp đồng bằng ven biển, đồng bằng sông Hồng, sông Cửu Long bị ngập mặn do nước biển dâng; tác động lớn đến sinh trưởng, năng suất cây trồng, thời vụ gieo trồng, làm tăng nguy cơ lây lan sâu bệnh hại cây trồng; thời gian thích nghi của cây trồng nhiệt đới mở rộng và của cây trồng á nhiệt đới thu hẹp lại; ảnh hưởng đến sinh sản, sinh trưởng, tăng khả năng sinh bệnh, truyền dịch của gia súc, gia cầm.

Do tác động của biến đổi khí hậu, tài nguyên nước phải chịu thêm nguy cơ suy giảm do hạn hán ngày một tăng ở một số vùng, mùa, ảnh hưởng trực tiếp đến nông nghiệp, cung cấp nước ở nông thôn, thành thị và sản xuất thủy điện. Chế độ mưa thay đổi có thể gây lũ lụt nghiêm trọng vào mùa mưa và hạn hán vào mùa khô, tăng mâu thuẫn trong khai thác và sử dụng tài nguyên nước.

Biến đổi khí hậu có tác động tiêu cực, tuy nhiên cũng mang lại một số cơ hội cho phát triển bền vững của Việt Nam. Hiện nay, mô hình phát triển thông thường của các nước đang phát triển là dựa vào khai thác tài nguyên thiên nhiên, tận dụng lao động giá rẻ, đã gây ô nhiễm môi trường dẫn đến phát triển thiếu bền vững. Vấn đề biến đổi khí hậu tạo cơ hội để chúng ta thay đổi tư duy, tìm ra mô hình và phương thức phát triển theo hướng phát thải cácbon thấp, bền vững.

Trong khung cảnh Việt Nam đã trở thành một quốc gia có thu nhập trung bình, các nguồn tài trợ quốc tế cho phát triển nói chung đều giảm dần và thay đổi tính chất hợp tác sang phương thức hai bên cùng có lợi. Biến đổi khí hậu mở ra các cơ hội để thúc đẩy hợp tác toàn cầu, đa phương, song phương, thông qua đó các nước đang phát triển như Việt Nam có thể tiếp cận các cơ chế mới đang hình thành để tiếp nhận hỗ trợ tài chính và chuyển giao công nghệ từ các nước phát triển.

Việc tăng cường các hoạt động hợp tác, hội nhập với các quốc gia, các tổ chức quốc tế trong quá trình thực hiện Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu và các điều ước quốc tế có liên quan sẽ nâng cao vai trò và vị thế của Việt Nam trong khu vực cũng như trên thế giới.

Việt Nam ứng phó với biến đổi khí hậu

Nhận thức rõ những tác động nghiêm trọng của biến đổi khí hậu đến sự phát triển bền vững của đất nước, Chính phủ Việt Nam đã sớm tham gia và phê chuẩn Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu và Nghị định thư Kyoto, đồng thời chỉ đạo từng bước hoàn thiện các văn bản pháp luật, tạo hành lang pháp lý cho công tác phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu. Tháng 12-2008, Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu đã được phê duyệt. Tháng 12-2011, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu. Đây là những nỗ lực quan trọng của Chính phủ cùng với sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế trong ứng phó với biến đổi khí hậu ở Việt Nam. Với sự quan tâm của Đảng và Chính phủ, ứng phó với biến đổi khí hậu ở nước ta đã đạt được một số kết quả bước đầu.

Thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu, Bộ Tài nguyên và Môi trường cùng với các bộ, ngành liên quan đã triển khai các nhiệm vụ như: xây dựng thể chế, chính sách và kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu; xây dựng các kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng cho Việt Nam phục vụ yêu cầu đánh giá tác động của biến đổi khí hậu đối với từng lĩnh vực, khu vực; triển khai Chương trình khoa học và công nghệ quốc gia về biến đổi khí hậu.

Công tác đàm phán, kêu gọi quốc tế hỗ trợ Việt Nam ứng phó với biến đổi khí hậu đã được đẩy mạnh và thu được kết quả khả quan. Đã triển khai được các chương trình hỗ trợ của chính phủ các nước: Đan Mạch, Nhật Bản, Pháp, Na Uy, Hà Lan, Canađa và các tổ chức quốc tế như Chương trình phát triển của Liên hợp quốc, Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển châu Á và một số chương trình, dự án khác đang trong thời gian vận động, đàm phán.

Khuyến nghị về định hướng ứng phó với biến đổi khí hậu ở Việt Nam

Với định hướng cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020, các hoạt động sản xuất và tiêu thụ năng lượng sẽ gia tăng mạnh mẽ, đặc biệt là trong công nghiệp, giao thông vận tải, phát triển đô thị, làm tăng lượng phát thải khí nhà kính của Việt Nam. Điều này là không phù hợp với xu thế chung của quốc tế đòi hỏi mỗi quốc gia cần phải có các hành động tích cực nhằm giảm phát thải khí nhà kính. Trong khi đó, năng lượng tái tạo, năng lượng mới có mức phát thải khí nhà kính thấp nhưng đòi hỏi đầu tư lớn và có giá thành cao.

Nhận thức về biến đổi khí hậu của cộng đồng còn hạn chế và phiến diện, mới chỉ quan tâm đến các tác động tiêu cực do biến đổi khí hậu gây ra mà chưa quan tâm đúng mức tới việc chuyển đổi lối sống, mẫu hình sản xuất và tiêu thụ theo định hướng cácbon thấp, tăng trưởng xanh.

Những thách thức đó đòi hỏi Việt Nam phải có những nỗ lực hơn nữa trong các chính sách, biện pháp tăng cường nhận thức và năng lực ứng phó với biến đổi khí hậu, song song với phát triển kinh tế nhằm tăng cường sức cạnh tranh của nền kinh tế và vị thế quốc gia trên trường quốc tế.

Thích ứng với biến đổi khí hậu

Với những tác động nghiêm trọng của sự nóng lên toàn cầu và nước biển dâng, vấn đề quan trọng hàng đầu trong việc ứng phó với biến đổi khí hậu đối với Việt Nam là phải thích ứng với biến đổi khí hậu. Thích ứng với biến đổi khí hậu cần được lồng ghép trong quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở tất cả các cấp. Thích ứng sẽ là một quá trình liên tục trong nhiều thập kỷ với những nhu cầu riêng biệt, nhưng liên quan với nhau ở các giai đoạn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Các biện pháp thích ứng là rất cấp thiết ở cấp địa phương.

Đầu tư cho các biện pháp thích ứng và cụ thể là cho kết cấu hạ tầng ven biển, giao thông, năng lượng, nông nghiệp có khả năng chống chịu các hiện tượng khí hậu cực đoan sẽ giảm được những chi phí rất lớn trong tương lai. Điều này hết sức quan trọng để đánh giá các kế hoạch mở rộng các thành phố, các khu công nghiệp mới, các dịch vụ môi trường (đặc biệt là xử lý chất thải và nước thải), lựa chọn địa điểm xây dựng các kết cấu hạ tầng như cảng, đường bộ, đường sắt, hệ thống cấp thoát nước… trong tương lai.

Đầu tư để tăng cường khả năng chống chịu với biến đổi khí hậu thông qua việc tạo công ăn việc làm, bảo vệ cuộc sống và tài sản của nhân dân cần được tiến hành theo hướng công trình và phi công trình:

- Các công trình hạ tầng lớn cần được xây dựng và nâng cấp để bảo vệ cuộc sống, công ăn việc làm và tài sản của người dân: đê điều, rừng ngập mặn, đập, cầu, đường, tăng khả năng chống ngập cho thành phố.

- Vị trí xây dựng các khu công nghiệp cần được cân nhắc kỹ để tránh những tổn thương do biến đổi khí hậu.

- Đường sá, hệ thống thoát nước và xử lý nước thải đô thị cần được thiết kế hoặc nâng cấp theo tiêu chuẩn thiết kế mới về mưa, lũ. Gia cố các công trình nhà cửa để chống bão, tăng cường các dịch vụ trong và sau thiên tai.

- Đối với những chương trình lớn cần áp dụng các biện pháp tích cực phòng, tránh. Những chính sách đã được thực hiện trong việc di dời các hộ dân sống rải rác ở đồng bằng sông Cửu Long đến những nơi tập trung, có trường học, cấp thoát nước và các dịch vụ khác cần được đánh giá và nhân rộng.

- Thích ứng trong nông nghiệp cần được ưu tiên dù ảnh hưởng của biến đổi khí hậu ở mức độ nào, thông qua phát triển các loại cây trồng chống chịu được điều kiện khí hậu khắc nghiệt, phát triển các cơ chế bảo hiểm và các ứng dụng nghiên cứu và triển khai nông nghiệp.

- Tăng cường quản lý rủi ro thiên tai (bão, lũ lụt, hạn hán) là một ưu tiên cho dù có ảnh hưởng của biến đổi khí hậu hay không.

Giảm nhẹ phát thải khí nhà kính

Giảm phát thải cácbon trên một đơn vị GDP nên là hướng tiếp cận mới. Việt Nam nên theo mô hình tăng trưởng xanh - cácbon thấp. Cần đặt mục tiêu giảm nhẹ phát thải để bảo đảm an ninh năng lượng và đáp ứng đủ nhu cầu năng lượng. Chiến lược phát triển cácbon thấp cần được xây dựng, đưa ra được những ưu tiên rõ ràng và một hệ thống giám sát và báo cáo để theo dõi tiến độ thực hiện. Giảm nhẹ phát thải khí nhà kính nên được coi là cơ hội kinh tế, xã hội và môi trường. Cần giảm mức độ phụ thuộc vào than, tăng hiệu suất sử dụng năng lượng và tăng cường phát triển rừng. Việt Nam nên xem xét lại chính sách năng lượng, hiện nay nguồn năng lượng chính là nguồn than nội địa và sẽ phải nhập khẩu trong tương lai.

Các hành động giảm nhẹ phù hợp của quốc gia (NAMA) có thể sẽ đóng vai trò quan trọng để nhận sự hỗ trợ tài chính và công nghệ quốc tế, ví dụ như: năng lượng hiệu quả, năng lượng tái tạo và quản lý chất thải. Việt Nam đã đi đầu trong quá trình chuẩn bị cho việc triển khai cơ chế giảm phát thải thông qua các nỗ lực hạn chế mất rừng và suy thoái rừng (REDD+), cơ chế này có thể mang lại thu nhập cho người nghèo, giúp giảm nghèo, bảo vệ nguồn nước và ngăn chặn suy thoái đất. Chương trình REDD+ có thể giúp quản lý rừng bền vững, tăng trưởng ngành công nghiệp sản phẩm từ rừng và phát triển kinh tế. Nếu thành công trên quy mô lớn, có thể trở thành một mô hình được nhân rộng ở nhiều quốc gia khác.

Tài chính cho ứng phó với biến đổi khí hậu

Việt Nam cần một chiến lược đầu tư cho cả thích ứng và giảm nhẹ biến đổi khí hậu, khuyến khích các cơ chế sáng tạo, bao gồm cải cách ngành tài chính để cạnh tranh và bảo đảm đầu tư quy mô lớn. Kết hợp giữa các nguồn tài chính khác nhau.

Thích ứng sẽ chủ yếu do đầu tư công. Quyết định đầu tư công cần phải được sắp xếp ưu tiên theo thời gian, theo địa lý, theo từng ngành và cần có cải tiến việc lập kế hoạch và hỗ trợ quốc tế.

Giảm nhẹ chủ yếu sẽ do đầu tư từ các doanh nghiệp. Cần điều chỉnh các chính sách tài chính (đặc biệt là trợ cấp năng lượng và các loại thuế) và cần có các quy định sáng suốt để vừa ứng phó với biến đổi khí hậu, vừa tăng trưởng kinh tế và tạo việc làm.

Có rất nhiều cơ hội thu hút tài chính quốc tế mà chúng ta có thể tận dụng, gồm: 1- Đầu tư trực tiếp (FDI); 2- Thị trường cácbon; 3- Các cơ chế song phương và đa phương, bao gồm: Quỹ khí hậu xanh, Quỹ môi trường toàn cầu (GEF), Quỹ thích ứng biến đổi khí hậu (AF) và Quỹ đầu tư khí hậu (CIFs).

Hỗ trợ chính thức cho ứng phó với biến đổi khí hậu cần được sử dụng một cách hợp lý cho hỗ trợ kỹ thuật, tăng cường năng lực, nghiên cứu và triển khai, đầu tư thí điểm, cải cách chính sách (tài chính) và nâng cao nhận thức.

Ngành kinh doanh ứng phó với biến đổi khí hậu

An ninh năng lượng và giá năng lượng sẽ là các yếu tố chi phối kinh tế toàn cầu. Các công ty dầu lửa quy mô lớn đã chuẩn bị đầu tư cho các nguồn năng lượng thay thế và nhiều quốc gia đặt mục tiêu phát triển năng lượng tái tạo để thay thế phần lớn hoặc hầu hết điện năng của họ vào năm 2050. Tuy thế giới đang ở giai đoạn khủng hoảng kinh tế toàn cầu nhưng đầu tư vào năng lượng tái tạo trong năm 2008 và 2009 tăng đáng kể. Điều này chứng tỏ có rất nhiều cơ hội cho các ngành kinh doanh ít cácbon, đặc biệt là ở Việt Nam, nơi mà một trong những nhà máy sản xuất pin năng lượng mặt trời lớn trên thế giới sẽ được xây dựng. Những đầu tư như vậy sẽ tạo ra giá trị gia tăng lớn và tăng năng lực cạnh tranh của Việt Nam cũng như ổn định kinh tế vĩ mô lâu dài. Chính sách công cần phải xóa bỏ các rào cản đối với đầu tư, chẳng hạn như rủi ro, tỷ suất lợi nhuận và quy mô của các thị trường mới và khách hàng mới. Cơ hội cho giảm phát thải khí nhà kính cho các doanh nghiệp có thể đạt được thông qua nghiên cứu và triển khai (với sự hỗ trợ công và tư); tài chính ưu đãi; thỏa thuận tự nguyện; công cụ thông tin; các mục tiêu và chính sách thuế khuyến khích năng lượng tái tạo; tăng tiêu chuẩn hiệu suất năng lượng cho các thiết bị, mở rộng đào tạo kỹ sư, kỹ thuật viên (giáo dục đại học và dạy nghề) và quy hoạch đô thị tốt hơn để tăng khả năng chống chịu và phát thải ít cácbon.

Một ngành công nghiệp ít cácbon đòi hỏi phải đo được sự phát thải, sử dụng năng lượng ở cấp cơ sở; thực hiện các mục tiêu giảm năng lượng và kiểm toán năng lượng cho các cơ sở chính; xây dựng được các thủ tục báo cáo sử dụng năng lượng và khí thải ở cấp cơ sở.

Ứng phó với biến đổi khí hậu tại Việt Nam đòi hỏi phải có sự thay đổi trong tư tưởng, chiến lược và quan điểm về biến đổi khí hậu nhằm xây dựng một nền tảng phù hợp với sự thay đổi trong hệ thống kinh tế - xã hội, môi trường, khí hậu và tài nguyên thiên nhiên. Công tác nghiên cứu, dự báo trong giai đoạn tới là hết sức quan trọng, không chỉ để cung cấp thông tin và giải pháp cho công tác phòng, tránh thiên tai được kịp thời, hiệu quả mà còn bảo đảm các căn cứ khoa học cho việc hoạch định chính sách lâu dài trong nước cũng như quan hệ quốc tế để thích ứng hiệu quả với các tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu, đồng thời giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, chung tay, góp sức cùng cộng đồng quốc tế bảo vệ hệ thống khí hậu trái đất.

 

PGS. TS. Trần Thục

Viện trưởng Viện Khoa học Khí tượng thủy văn và Môi trường 

Bình luận