Thực hiện kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền theo quy định của Bộ Chính trị

Ngày đăng: 06/01/2020 - 07:01

Vấn đề tha hóa quyền lực, nạn chạy chức, chạy quyền là những hiện tượng khá nổi cộm trong công tác cán bộ ở nước ta thời gian qua. Ngày 23/9//2019, thay mặt Bộ Chính trị, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Quy định số 205-QĐ/TW về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền. Để thực hiện nghiêm túc các nội dung đã được cụ thể hóa trong Quy định, nói cách khác, để Quy định này đi vào cuộc sống, các cấp ủy, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo địa phương, cơ quan, đơn vị cần phải tiến hành đồng bộ, hiệu quả nhiều biện pháp.

1. Yêu cầu cấp thiết về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ

Hơn 30 thực hiện công cuộc đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã tạo ra nhiều nhân tố tích cực cho việc xây dựng và củng cố hệ thống chính trị. Song, bên cạnh đó đã xuất hiện tình trạng thoái hóa, biến chất, lạm dụng quyền lực để trục lợi cá nhân trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Một trong những nguyên nhân chính của tình trạng trên là do cơ chế kiểm tra, giám sát và kiểm soát quyền lực chưa thực sự hiệu quả; tính công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình còn hạn chế;  kiểm soát quyền lực trong công tác tổ chức cán bộ còn tồn tại một số bất cập. Trên thực tế, một số cấp ủy chưa đáp ứng được yêu cầu về năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của không ít tổ chức đảng còn thấp, nhất là ở cơ sở. Một số cấp ủy viên còn thiếu gương mẫu, sa vào chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, cục bộ, lợi ích nhóm. Việc phân định thẩm quyền, trách nhiệm giữa người đứng đầu với tập thể cấp ủy, lãnh đạo cơ quan, đơn vị chưa thực sự rõ ràng, thiếu sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ trên - dưới. Cơ cấu tổ chức của Đảng mặc dù đã được chú trọng đổi mới và hoàn thiện, song hiệu lực lãnh đạo, hiệu quả hoạt động của một số thiết chế cấu thành của Đảng chưa cao. Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ. Tình trạng lạm quyền, lộng quyền xuất hiện ở nhiều khâu trong công tác cán bộ; một số quy chế, quy trình trong công tác cán bộ chưa đồng bộ, đầy đủ, chặt chẽ, dẫn đến tình trạng bị một số cán bộ lãnh đạo, quản lý hoặc cán bộ làm công tác tham mưu về tổ chức cán bộ lợi dụng để “lách luật” nhằm thực hiện ý đồ cá nhân.

Chống chạy chức, chạy quyền là một hoạt động quan trọng trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Mặc dù vấn đề chạy chức, chạy quyền đã được các kỳ Đại hội Đảng đề cập tới nhiều lần, nhưng chưa được nghiên cứu một cách kỹ lưỡng, thấu đáo. Việc triển khai thực hiện các giải pháp chống chạy chức, chạy quyền tại nhiều cơ quan, đơn vị còn hình thức, hiệu quả chưa cao, không thường xuyên nên tác dụng phòng ngừa còn hạn chế. Nhiều tổ chức đảng, đảng viên còn hạn chế trong nhận thức, lơ là, mất cảnh giác, lúng túng trong nhận diện và đấu tranh ngăn chặn các hành vi chạy chức, chạy quyền. Một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý có biểu hiện suy thoái về tư tưởng với những biểu hiện như: không dám đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực trong công tác tổ chức cán bộ, có thái độ an phận, e dè, nể nang, ngại đụng chạm, sợ mất lòng; thờ ơ, vô cảm, coi vấn đề chạy chức, chạy quyền xảy ra ở nơi khác, đơn vị khác, thuộc trách nhiệm của người khác mà không phải ở địa phương, đơn vị mình và không thuộc trách nhiệm của mình.

Chạy chức, chạy quyền không chỉ dẫn đến tha hóa quyền lực của mỗi cá nhân mà còn dẫn đến tha hóa quyền lực của cả tổ chức đảng và hệ thống chính trị, từ đó vô hiệu hóa vai trò của tổ chức đảng cũng như nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng. Do đó, đẩy lùi nạn chạy chức, chạy quyền, tha hóa quyền lực là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách đối với Đảng và hệ thống chính trị hiện nay.

2. Quy định số 205-QĐ/TW là cơ sở để quản lý chặt chẽ công tác cán bộ và xử lý khi cán bộ vi phạm

Quy định số 205-QĐ/TW yêu cầu cấp ủy, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo địa phương, các cơ quan, đơn vị phải tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các nguyên tắc, quy định, quy chế, quy trình về công tác cán bộ; thường xuyên tự kiểm tra, kịp thời chấn chỉnh những sai sót và chịu trách nhiệm về những hạn chế, khuyết điểm trong công tác cán bộ thuộc phạm vi, thẩm quyền, trách nhiệm được giao; rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành theo thẩm quyền các quy định, quy chế về công tác cán bộ. Quy định cụ thể trách nhiệm của tập thể, cá nhân; quy trình, thủ tục bảo đảm dân chủ, khách quan, công khai, minh bạch trong từng khâu về công tác cán bộ. Quy định cũng không cho phép bố trí những người có quan hệ gia đình (vợ, chồng, bố, mẹ của vợ hoặc chồng, con, anh chị em ruột) cùng đảm nhiệm các chức danh có liên quan như: Bí thư, phó bí thư, trưởng ban tổ chức, chủ nhiệm ủy ban kiểm tra cùng cấp ủy; chủ tịch ủy ban nhân dân và người đứng đầu cơ quan nội vụ, thanh tra cùng cấp ở một địa phương; thành viên trong cùng ban cán sự đảng, đảng đoàn; người đứng đầu và cấp phó của người đứng đầu trong cùng địa phương, cơ quan, đơn vị.

Theo Quy định, nhân sự phải báo cáo kịp thời, đầy đủ, chính xác, rõ ràng hồ sơ lý lịch đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức và kê khai trung thực tài sản, thu nhập theo quy định. Nghiêm cấm việc trực tiếp hoặc thông qua người khác, thông qua phương tiện truyền thông đại chúng, mạng xã hội để phát tán thông tin không đúng sự thật, tố cáo sai sự thật nhằm đề cao bản thân, hạ thấp uy tín của người khác trong công tác cán bộ.

Quy định cũng nêu rõ, đối với cán bộ tham mưu, đề xuất về công tác cán bộ, ngoài việc thực hiện đúng các quy định hiện hành, phải chịu trách nhiệm về đề xuất của mình, bảo đảm tính chính xác, kịp thời của hồ sơ nhân sự; báo cáo bằng văn bản với các cấp có thẩm quyền về nhân sự và phương án nhân sự thuộc địa bàn được phân công theo dõi. Cùng với đó, phải kịp thời phát hiện, báo cáo và kiến nghị xử lý những dấu hiệu tiêu cực, sai phạm trong công tác cán bộ ở địa bàn, lĩnh vực phụ trách. Tuyệt đối không được nhũng nhiễu, gây khó khăn, phiền hà, đặt điều kiện đối với nhân sự và cơ quan trình nhân sự.

Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, các cấp ủy, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo và người đứng đầu địa phương, cơ quan, đơn vị có trách nhiệm: phát hiện, tiếp nhận thông tin liên quan tới hành vi chạy chức, chạy quyền, bao che, tiếp tay cho chạy chức, chạy quyền và xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý; cung cấp thông tin và thực hiện yêu cầu của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong quá trình kiểm tra, xử lý hành vi chạy chức, chạy quyền, bao che, tiếp tay cho chạy chức, chạy quyền ở cơ quan, đơn vị mình; bảo vệ và khen thưởng kịp thời những cá nhân phát hiện, phản ánh, tố cáo đúng các hành vi chạy chức, chạy quyền, bao che, tiếp tay cho chạy chức, chạy quyền.

Xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên, công chức có hành vi chạy chức, chạy quyền và bao che, tiếp tay cho chạy chức, chạy quyền. Đối với cán bộ đang công tác, tùy theo hình thức kỷ luật còn có thể áp dụng các biện pháp xử lý: bị khiển trách thì đưa ra khỏi quy hoạch cán bộ (nếu đang có trong quy hoạch); bị cảnh cáo thì xem xét cho thôi tham gia cấp ủy, thôi giữ chức vụ đang đảm nhiệm; bị cách chức thì đưa ra khỏi quy hoạch cán bộ (nếu đang có trong quy hoạch); bị khai trừ ra khỏi Đảng thì xem xét buộc thôi việc hoặc chấm dứt hợp đồng lao động. Đối với các hành vi chạy chức, chạy quyền, bao che, tiếp tay cho chạy chức, chạy quyền liên quan đến việc đưa, nhận hối lộ hoặc các hành vi vi phạm khác đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì phải chuyển hồ sơ sang cơ quan chức năng để xem xét, xử lý theo quy định của pháp luật; nghiêm cấm giữ lại để xử lý hành chính.

Có thể khẳng định, Quy định số 205-QĐ/TW đã thể hiện quyết tâm của Bộ Chính trị và Trung ương trong việc ngăn chặn tiêu cực, kiểm soát quyền lực và chống chạy chức, chạy quyền trước thềm diễn ra đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Đồng thời, đây là sự cụ thể hóa phát biểu chỉ đạo của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, đó là: “Phải nhốt quyền lực vào lồng cơ chế”, nghĩa là phải có cơ chế kiểm soát quyền lực. Quy định này là cơ sở pháp lý quan trọng để các cấp ủy, cơ quan lãnh đạo, các tổ chức đảng, chính quyền tuân thủ các quy định của Bộ Chính trị. Quy định này có tính răn đe, bất kỳ ai vi phạm đều bị xử lý bằng hình thức kỷ luật Đảng, thậm chí là xử lý hình sự.

3. Cần tiến hành đồng bộ các giải pháp để Quy định số 205-QĐ/TW đi vào cuộc sống

Để Quy định số 205-QĐ/TW nhanh chóng phát huy hiệu lực, hiệu quả, các cấp, các ngành cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:

Một là, tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức cho cán bộ, đảng viên nhằm nâng cao nhận thức về ý nghĩa, vai trò, tầm quan trọng của việc kiểm soát quyền lực, chống chạy chức, chạy quyền. Khuyến khích, biểu dương những nhân tố tích cực, điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt, những cách làm mới, sáng tạo. Thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; Quy định số 101-QĐ/TW, ngày 07/6/2012 của Ban Bí thư về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp; Quy định số 08/QĐi/TW, ngày 25/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương.

Hai là, lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện công tác tổ chức cán bộ, kịp thời khắc phục những bất cập, tiêu cực trong công tác cán bộ. Cụ thể hóa các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, hoàn thiện hệ thống quy chế, quy định về công tác cán bộ, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, chặt chẽ giữa các khâu. Tổ chức thực hiện đầy đủ, đồng bộ các chủ trương, chính sách, quy định, quy chế, quy trình liên quan đến công tác tổ chức cán bộ. Nghiên cứu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế về xây dựng chế độ phân cấp, phân quyền theo hướng đổi mới tổ chức bộ máy hệ thống chính trị đồng bộ, tinh giản, thực quyền; kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, xây dựng nền đạo đức công vụ trách nhiệm, liêm chính; quy định mô hình thi tuyển cạnh tranh để lựa chọn người thực tài; phân cấp quản lý cán bộ, bổ nhiệm và giới thiệu cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực ứng cử; quy định khung tiêu chuẩn chức danh, khung tiêu chí đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp.

Ba là, nâng cao chất lượng đội ngũ, xây dựng đạo đức công vụ của cán bộ tham mưu về công tác tổ chức cán bộ, nhất là người đứng đầu cơ quan, đơn vị. Xây dựng bộ tiêu chí về đạo đức công vụ của cán bộ tham mưu về công tác tổ chức cán bộ với các phẩm chất: công tâm, khách quan, trung thực, vì lợi ích chung, gương mẫu, khiêm tốn, cầu thị, nói đi đôi với làm. Chỉ đạo thực hiện nghiêm quy chế công tác đối với cán bộ phụ trách địa bàn; xây dựng hình ảnh người cán bộ làm công tác tổ chức xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sáng, gương mẫu, tinh thông. Nâng cao trình độ lý luận, chuyên môn nghiệp vụ, năng lực nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn của cán bộ, đảng viên làm công tác tổ chức xây dựng Đảng. Tiếp tục đổi mới việc tuyển chọn, đánh giá, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ngành Tổ chức xây dựng Đảng, bảo đảm chặt chẽ, công khai, minh bạch, đúng quy trình. Rà soát, tham mưu đưa vào quy hoạch những cán bộ có đủ tiêu chuẩn, năng lực để bổ nhiệm vào các chức vụ lãnh đạo, quản lý trong ngành Tổ chức xây dựng Đảng theo từng giai đoạn.

Bốn là, hoàn thiện cơ chế, chính sách tạo động lực cho cán bộ, công chức tích cực phòng, chống tham nhũng và những biểu hiện tiêu cực trong công tác tổ chức cán bộ. Điều chỉnh cơ chế, chính sách theo hướng xóa bỏ những đặc quyền, đặc lợi, tiến tới cán bộ lãnh đạo, quản lý được hưởng đúng quyền lợi gắn với nhiệm vụ, trách nhiệm được giao. Tạo điều kiện để cán bộ, công chức, viên chức, người lao động phấn đấu, phát triển năng lực chuyên môn, thi tuyển cạnh tranh vào các vị trí lãnh đạo. Từng bước cải cách, điều chỉnh chính sách nhà ở, đất ở và điều kiện làm việc đối với cán bộ, công chức; từng bước bảo đảm cán bộ, công chức đủ sống bằng lương; áp dụng chế độ khoán tiêu chuẩn đãi ngộ đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý. Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác tổ chức xây dựng Đảng. Nâng cấp, bổ sung trang thiết bị, tạo điều kiện cho cán bộ yên tâm công tác, cống hiến.

Năm là, phát huy vai trò của Nhân dân, cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và cơ quan báo chí trong kiểm tra, giám sát. Tăng cường đội ngũ cộng tác viên dư luận xã hội hoặc dư luận quần chúng nhân dân để có thêm kênh thông tin kiểm tra, giám sát và kiểm soát quyền lực. Thực hiện hiệu quả việc kiểm tra, giám sát, kiểm soát, phản biện, chất vấn, giải trình, truy vấn trách nhiệm. Tăng cường rà soát, điều chỉnh công tác cán bộ, công tác phát triển Đảng và quản lý đảng viên về việc chấp hành nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng trên phạm vi toàn quốc. Thể chế hóa cơ chế kiểm soát quyền lực bằng các quy định pháp luật cụ thể: xác định thẩm quyền của Hội đồng nhân dân các cấp; vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội trong việc giám sát và phản biện xã hội; thể chế hóa quyền, trách nhiệm, giải pháp, chế tài trong Luật Cán bộ, công chức… 

NGÔ VĂN KHIÊM

Tạp chí Xây dựng Đảng

Tài liệu tham khảo:

1. Ủy ban Kiểm tra Trung ương: Công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng (Tài liệu nghiệp vụ dùng cho cấp cơ sở), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2018.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Về cán bộ và công tác cán bộ trong thời kỳ đổi mới (Trích văn kiện Đảng), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2018.

Bình luận