Tính thời sự của học thuyết Mác

Ngày đăng: 15/11/2016 - 08:11

16.11.2016 Lan ảnh Mác Tính thời sự của học thuyết MácCuộc khủng hoảng tài chính kinh tế thế giới bùng phát từ nước Mỹ, trung tâm CNTB thế giới, diễn ra từ 2007 đã khơi dậy sự “hồi sinh” học thuyết Mác. Chính một số học giả nổi tiếng và chính khách lớn phương Tây đã làm “hồi sinh” học thuyết Mác.

Fukuyama - học giả Mỹ gốc Nhật Bản - từng tuyên bố chủ nghĩa Mác đã chết, chủ nghĩa cộng sản đã “cáo chung” và “lịch sử đã kết thúc” từ cuối những năm 80 đầu những năm 90 thế kỷ XX do những biến đổi kịch tính ở Liên Xô, Đông Âu cũng tỏ ra lúng túng khi chủ nghĩa Mác được chính phương Tây làm “hồi sinh”.

Giáo sư lịch sử và các vấn đề quốc tế thuộc Đại học Prinxtơn (Mỹ) và giáo sư Viện Đại học châu Âu tại Florence (Italia) nhấn mạnh: sự phục hồi ảnh hưởng chủ nghĩa Mác trên thế giới cho thấy quan điểm thống trị hiện nay là CNTB đang ở thế thoái trào.

CNTB đã có lịch sử hơn 500 năm. Nó đã có những cống hiến cực kỳ to lớn cho loài người. Nó đã tạo ra những lực lượng sản xuất không những đồ sộ mà ngày càng tinh xảo, tinh vi, những máy móc “thông minh”, những vật liệu, năng lượng kỳ diệu, v.v.. Với đại công nghiệp, nó đã tạo ra thị trường thế giới thay cho tình trạng biệt lập trước đó của các địa phương và dân tộc vốn tự cung tự cấp. Do xâm chiếm thuộc địa, bóp nặn thị trường thế giới, CNTB đã làm cho sản xuất và tiêu dùng của tất cả các nước mang tính chất toàn cầu. Chính CNTB đã có công làm cho lịch sử biến thành lịch sử thế giới.

Sau khi Liên Xô và Đông Âu tan rã, CNTB chiếm lĩnh đa phần thế giới, bản đồ chính trị thế giới với hai hệ thống đối lập đã thay đổi căn bản. Lịch sử phải chăng “kết thúc” ở chủ nghĩa tư bản, tột đỉnh của văn minh loài người? Thực tiễn thế giới “hậu Xôviết” đã sớm bác bỏ kết luận sai lầm ấy. Có điều cần ghi nhận: ngày nay ít ai còn mang ảo tưởng CNTB sắp chết đến nơi, nhưng số người tin tuyệt đối vào sức sống vĩnh hằng của CNTB cũng ngày càng vơi dần. Xem ra đa số đánh giá CNTB còn sức sống nhất định nhưng cuối cùng nó cũng không tránh khỏi tiêu vong.

Thật ra sức sống còn lại của CNTB mà đôi khi có người choáng ngợp, một phần do nó vốn chưa thật cạn kiệt, còn một phần rất quan trọng là do những yếu kém, sai lầm dẫn đến sụp đổ cay đắng một mảng lớn CNXH hiện thực. Một sự thật nữa rất đáng lưu ý là tâm trạng hoan hỉ của phương Tây trước sự sụp đổ của Liên Xô chỉ được nhất thời; sau đó, khi không còn địch thủ đáng gờm nhất phải đối mặt, thì những đầu óc ít nhiều tỉnh táo, sáng suốt trong các học giả và chính khách phương Tây bình tĩnh quay về nhìn lại bản thân CNTB, đã kịp thời cảnh báo: coi chừng nguy cơ đe dọa vận mệnh CNTB vốn ra không phải từ phía CNXH, từ Liên Xô, mà chính từ ngay trong lòng CNTB. Rõ ràng CNTB đang “tự phản tỉnh”, “tự phê phán”, đang thấy khó mà tự duy trì nếu không có phép gì mầu nhiệm hơn những phép đã dùng để tự điều chỉnh, thích nghi. Những khái niệm “xã hội hậu tư bản”, hay “CNTB mới”, “CNTB nhân dân”, hay “CNTB của những người lao động”, v.v. mà một số học giả phương Tây ưa dùng nói lên hai mặt: nó vừa là một sự ngụy biện rằng CNTB đã không còn là CNTB nữa vì nó không còn bóc lột; vừa là - về khách quan - mặc nhiên thừa nhận chế độ tư bản đích thực, truyền thống như bản thân nó, đã hết lý do tồn tại, đã hết khả năng tự biện minh; có nghĩa ngay các nhà tư tưởng tư sản cũng đã mất niềm tin ở chính CNTB, đã mặc nhiên và gián tiếp phải nói đến một chế độ mới đang “gõ cửa” CNTB.

Học thuyết Mác cho rằng, sự phát triển của xã hội loài người, sự chuyển biến từ hình thái kinh tế - xã hội này lên hình thái kinh tế - xã hội khác, suy đến cùng, luôn được thực hiện trên cơ sở phát triển nền sản xuất vật chất và lực lượng sản xuất của xã hội. Ở giai đoạn hiện nay, sự phát triển rất cao lực lượng sản xuất dưới tác động của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang sinh ra những xu hướng phát triển về khách quan mang tính đối kháng với quan hệ sản xuất TBCN, đồng thời tự phát tạo ra những cơ sở và tiền đề dẫn tới chế độ mới - chế độ XHCN. Tất nhiên chế độ mới không thể ra đời mà không thông qua những chuyển biến cách mạng trong chế độ chính trị dưới hình thức này hay hình thức khác, hoặc bạo lực vũ trang hoặc bạo lực chính trị, hòa bình, hoặc thông qua các cuộc bầu cử và đấu tranh nghị trường dựa trên sức mạnh nhân dân.

Sự phát triển của lực lượng sản xuất ở giai đoạn xã hội hóa ngày càng cao hiện nay đang thúc đẩy những quá trình tập trung, sáp nhập, liên kết ngày càng cao không chỉ trong phạm vi quốc gia mà cả trên quy mô thế giới, không chỉ về lực lượng sản xuất mà cả sở hữu tư bản, thành những hình thức “CNTB tập đoàn” của các nhà tư bản kếch sù, thậm chí siêu quốc gia. Rõ ràng cái vỏ tư nhân TBCN đã quá chật chội đối với nội dung sức sản xuất cực kỳ đồ sộ mà nó chứa đựng; thậm chí quá chật cả với hình thức sở hữu tư bản độc quyền tư nhân. C.Mác và Ph.Ăngghen viết trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản: “Xã hội tư sản hiện đại, với những quan hệ sản xuất và trao đổi tư sản của nó, với những quan hệ sở hữu tư sản, đã tạo ra những tư liệu sản xuất và trao đổi hết sức mạnh mẽ như thế, thì giờ đây, giống như một tay phù thủy không còn đủ sức trị những âm binh mà y đã triệu lên”(1). Chính CNTB - một cách khách quan - đang tự phủ định mình và đang “làm việc” chuẩn bị cho tương lai của CNXH.

Từ tính chất xã hội hóa cao của sản xuất và lực lượng sản xuất cũng xuất hiện trong các nước tư bản phát triển ngày càng nhiều nhân tố mầm mống những quan hệ xã hội tương lai, chẳng hạn các công ty cổ phần có sự tham gia của những người lao động vào sở hữu và quản lý. Hình thức công ty cổ phần có loại thuộc những “nhà tư bản tập thể” hoặc trực tiếp mang hình thái tư bản xã hội... đối lập với tư bản tư nhân, có loại “nửa nọ nửa kia”, một nửa thuộc các nhà tư bản vừa và nhỏ, một nửa cổ đông là những người lao động. C.Mác nói: “Những xí nghiệp cổ phần tư bản chủ nghĩa, cũng như những nhà máy hợp tác, đều phải được coi là những hình thái quá độ từ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa sang phương thức sản xuất tập thể”(2). Không chỉ thế, ngay một số hình thức tổ chức và quản lý kinh tế, quản lý văn hóa, xã hội của CNTB hiện tại cũng đang gợi ý cho tương lai CNXH. V.I.Lênin chỉ rõ “ngày nay thì chủ nghĩa xã hội nhìn sang chúng ta từ tất cả khung cửa của CNTB hiện đại, chủ nghĩa xã hội đang hiện ra trực tiếp, trên thực tiễn, trong mỗi biện pháp quan trọng tạo thành một bước tiến trên cơ sở CNTB hiện đại ấy”(3).

Ngay trong những biện pháp giải cứu khỏi phá sản các ngân hàng và công ty công nghiệp lớn, Mỹ và một số nước tư bản khác đã phải dùng đến biện pháp nhà nước hóa toàn bộ hoặc góp một phần vốn cổ phần khiến dư luận tư sản gán cho là khuynh “tả”, là ngả theo CNXH. Tháng 9-2008, trong một cuộc họp tại điện Elysée (Pháp), Tổng thống Vênêduêla Hugo Chavez đã mỉa mai gọi Tổng thống Pháp N. Sarkozy là “đồng chí”. Hugo Chavez nói: “đồng chí Sarkozy là một người bạn tốt, song vẫn là tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên đồng chí ấy đang đến gần chủ nghĩa xã hội. Đồng chí Sarkozy nói rằng phải làm lại chủ nghĩa tư bản, bằng không sẽ nổ ra một cuộc cách mạng toàn cầu. Đồng chí Sarkozy này, cuộc cách mạng ấy ở Mỹ Latinh chúng tôi đã nổ ra cách đây ít lâu rồi. Không cách chi làm lại CNTB mà phải sáng tạo một hệ thống mới, hoàn toàn mới, một “chủ nghĩa xã hội của thế kỷ XXI”(4).

Không đâu! Sarkozy phê phán CNTB kiểu Mỹ nhưng không từ bỏ CNTB nói chung, trái lại ông ta đang tìm cách bảo vệ đến cùng và chỉnh đốn nó. Trong diễn văn khai mạc cuộc Hội thảo diễn ra trong hai ngày 8 và 9-1-2009 tại Pari với chủ đề “Một thế giới mới, một CNTB mới”, Tổng thống Pháp Sarkozy nói: Khủng hoảng của tư bản tài chính không phải là khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản, và liều thuốc chữa trị cuộc khủng hoảng không phải là một thứ chủ nghĩa chống tư bản, mà phải là những biện pháp nhằm đạo đức hóa CNTB chứ không phải nhằm tiêu hủy nó(5).

Dẫu sao, việc Tổng thống Pháp Sarkozy đọc Tư bản của Mác cũng như Tổng thống Mỹ B.Obama góp vốn cổ phần nhà nước vào một số ngân hàng và công ty công nghiệp lớn nhằm giải cứu khỏi khủng hoảng là thêm những bằng chứng nói lên CNTB - về khách quan - đang tự phủ định mình và cho thấy chưa bao giờ CNTB lại “đến gần” CNXH như hiện nay.

Nói CNTB đang khủng hoảng và ở thế thoái trào, vậy CNXHthì sao? Chẳng phải CNXH cũng đang lâm vào tình cảnh như thế? Có phần đúng, nhưng ở đây có sự khác nhau căn bản. CNTB khủng hoảng và thoái trào từ lâu rồi và về mặt quy luật lịch sử đang ở thế đi xuống. Còn CNXH lâm vào khủng hoảng nhưng khủng hoảng trong quá trình phát triển và theo quy luật lịch sử đang ở thế đi lên.

Có người thường hay nói về cái thuyết “phá hủy - sáng tạo”. Với cuộc khủng hoảng hiện nay của CNTB, dường như họ cũng dùng cái thuyết đó để chứng minh rằng, qua cuộc khủng hoảng lớn này CNTB lại tự điều chỉnh để đi lên với nhiều sức sống mới. Sự thể không thể diễn ra như thế. Khủng hoảng chu kỳ khoảng chục năm một lần và chu kỳ ngày càng rút ngắn, khủng hoảng lần sau trầm trọng hơn lần trước, nhất là khi CNTB đã trở thành CNTB tài chính tiền tệ, trong đó tiền tách ra khỏi hàng hóa vật chất, tiền đẻ ra tiền, lượng tiền khổng lồ mỗi ngày lại được lưu chuyển cực kỳ nhanh, bằng các phương tiện điện tử không thể kiểm soát nổi. Nền “kinh tế ảo” ấy trong phút chốc có thể lật nhào những nền kinh tế thật. Tình hình như thế làm sao có thể nói đến “phá hủy - sáng tạo”. Mặc dù hiện nay các ông trùm tài phiệt đang cố tìm cách tháo gỡ nhưng nhiều lắm chỉ có thể tháo gỡ tạm thời, không căn bản vì không thể nào đi vào giải quyết căn gốc vấn đề.

Với CNXH đang vận động thay thế mô hình cũ tập trung, quan liêu, bao cấp thông qua cải cách, đổi mới, mở cửa hiện nay, có thể nói, đúng là quá trình “phá hủy - sáng tạo”. Từ trong bản chất, CNXH có tiềm năng sáng tạo lớn. Tuy nhiên, sẽ là đơn giản và ảo tưởng nếu nghĩ rằng CNXH với mô hình mới thật sự khoa học và thật hoàn thiện sẽ nhanh chóng được xác lập như trở bàn tay. Cũng là ảo tưởng nếu nghĩ rằng CNXH sẽ được xác lập sớm hơn trên khắp thế giới thay cho CNTB đã hết sứ mệnh lịch sử. Tất cả đều đang là những quá trình dài. CNXH đang đứng trước nhiều khó khăn, thử thách cả trong thực tiễn, cả trong lý luận. Về khách quan, đúng là CNTB đã tạo ra những tiền đề vật chất cho CNXH. Nhưng thắng lợi của CNXH phụ thuộc một cách quyết định vào những nhân tố chủ quan của cách mạng.

(1) Nhân tố chủ quan trước hết phải kể đến các nước XHCN đang tồn tại sau khi Liên Xô và Đông Âu sụp đổ. Sự kiên trì con đường XHCN, sự ổn định vững mạnh toàn diện và không ngừng phát triển về mọi mặt của các nước còn lại; đường lối chính trị đúng đắn trong nước, ngoài nước của các nước này - tất cả điều đó, về lý thuyết mà nói, phải có ý nghĩa quyết định nhất. Đã có những thắng lợi to lớn, rất quan trọng, có ý nghĩa lịch sử. Chỉ riêng sự trụ vững của các nước này trong cơn sóng gió quốc tế và trước bao nhiêu âm mưu, thủ đoạn và hành động phá hoại của kẻ thù đã là một thành quả lịch sử khiến loài người không mất đi niềm hy vọng vào tương lai của CNXH. Tuy vậy, những khó khăn, thách thức còn rất nhiều. V.I. Lênin từng chỉ rõ: “Sự xuất hiện của một giai cấp mới trên vũ đài lịch sử, với tư cách là người lãnh tụ và người lãnh đạo xã hội, không bao giờ diễn ra mà lại không có một thời kỳ “tròng trành” hết sức dữ dội, một thời kỳ chấn động, đấu tranh và bão táp, đó là một mặt; mặt khác, không bao giờ diễn ra mà không có một thời kỳ mò mẫm, thí nghiệm, do dự, ngả nghiêng trong việc lựa chọn những phương pháp mới đáp ứng đúng với tình thế khách quan mới”(6). Các nước XHCN đang tồn tại, trong quá trình đi lên đều ít nhiều đã trải qua và đang trải qua những kinh nghiệm thực tế như V.I. Lênin nói.

(2) Ở những nước đảng cộng sản chưa cầm quyền, tình hình còn rất khó khăn, phức tạp. Khối cánh tả nhiều nơi dường như có tăng thêm về lượng nhưng lại yếu về chất, đang trong tình trạng phân tán và chia năm sẻ bảy ngay trong lực lượng nòng cốt là đảng cộng sản. Không ít đảng biến chất, chuyển sang CNXH dân chủ; tình trạng “trong đảng có phái, ngoài đảng có đảng” khá phổ biến. Thực trạng đó tất nhiên ảnh hưởng hết sức tiêu cực đến phong trào công nhân, công đoàn và các tổ chức quần chúng khác: thiếu mục tiêu chính trị rõ ràng, thiếu sự lãnh đạo tổ chức hiệu quả, thiếu hành động thống nhất.

Những năm gần đây tình hình chuyển biến có chiều tốt hơn, nhiều cuộc đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ làm, đòi trợ giá nông sản, v.v. khá quy mô và quyết liệt, những cuộc biểu tình chống mặt trái của toàn cầu hóa tập hợp hết sức đông đảo và rộng rãi nhiều lực lượng và khuynh hướng khác nhau. Trong nghị trường nhiều nước tư bản, đại biểu khối cánh tả chiếm những vị trí đáng kể. Tuy nhiên, nói chung phong trào vẫn mang nhiều tính tự phát, thiếu sự lãnh đạo thống nhất, có hiệu quả.

(3) Tình trạng chia rẽ, phân hóa, phân tán về tổ chức và đấu tranh nói trên có nguyên nhân sâu xa ở sự khủng hoảng về đường lối chính trị, về chiến lược, về tư tưởng lý luận, về niềm tin vào CNXH. Nguyên nhân này thật ra không phải xuất hiện từ khi Liên Xô đổ vỡ mà trước đó khá lâu đã có những mầm mống và phát triển lớn dần, đến khi Liên Xô đổ thì biến thành thảm hoạ đối với không ít đảng, kể cả một số đảng lớn có bề dày lịch sử. Trong nhiều đảng hiện nay vẫn còn ý kiến bất đồng về đánh giá CNXH mấy chục năm ở Liên Xô, về nguyên nhân Liên Xô sụp đổ. Có những ý kiến phủ định Cách mạng Tháng Mười, thậm chí phủ định cả chủ nghĩa Mác. Từ đó số đảng viên rời bỏ hàng ngũ của Đảng không phải ít. Số ở lại đang cố gắng rút ra những bài học lịch sử của CNXH, phân tích những đặc điểm mới của thế giới hậu Xôviết, từ đó ra sức tìm kiếm con đường mới của tiến bộ xã hội và CNXH. Nhưng không ít đảng và những người cộng sản xem ra còn lúng túng, chưa sáng tỏ con đường cách mạng đi lên cho đất nước mình. Sự lạc hậu và phân hóa về lý luận là tình trạng phổ biến. Quả cũng khó tránh khỏi bởi thực tiễn thế giới đang diễn ra với biết bao nhiêu điều mới mẻ, phức tạp; đang đặt ra cho chúng ta biết bao câu hỏi về con đường đi lên hiện nay và sắp tới của nhân loại, của các dân tộc, mà trong di sản mácxít chưa có sẵn câu trả lời cụ thể. Để trả lời cho được những câu hỏi đó đòi hỏi phải phát triển chủ nghĩa Mác lên một giai đoạn mới về chất - giai đoạn sau Lênin. Nhưng, đó lại là một cái thiếu lớn, một chỗ yếu có thể nói là căn bản của phong trào cộng sản quốc tế hiện nay.

(4) Trên ý nghĩa nhất định, khắc phục và vượt qua cho được chỗ yếu và cái thiếu lớn về mặt lý luận là một khâu then chốt, quyết định để tăng cường nhân tố chủ quan của cách mạng, bảo đảm đáp ứng ngang tầm những đòi hỏi khách quan của thực tiễn và tiến trình lịch sử trong giai đoạn hiện nay. Để làm được điều đó phải có sự phối hợp của phong trào cộng sản quốc tế trên cơ sở nỗ lực trí tuệ tối đa của mỗi đảng cộng sản.

Xưa nay và nhất là trong thế giới toàn cầu hóa ngày nay, không một đảng cộng sản nào có thể giải quyết đúng đắn những vấn đề nước mình mà lại không tính đến cục diện thế giới nói chung. CNCS, phong trào cộng sản về bản chất mang tính quốc tế mà những chân lý phổ biến của nó được phản ánh trong chủ nghĩa Mác - Lênin, trong thế giới quan và phương pháp luận mácxít. Tất nhiên, vũ đài đấu tranh cách mạng của mỗi đảng cộng sản trước hết và chủ yếu là ở đất nước và dân tộc mình. Đồng thời phải thấy, như V.I.Lênin nói, người ta không thể bắt tay giải quyết những vấn đề riêng nếu trước đó không giải quyết những vấn đề chung, bởi như thế cứ mỗi lần lại “vấp phải” vấn đề chung, mà “vấp phải” như thế một cách không tự giác thì không tránh khỏi dẫn đến những sai lầm có tính nguyên tắc.

Vì vậy, sự hợp tác quốc tế trong việc tiến hành một cuộc đại tổng kết thực tiễn, đại tổng kết lịch sử và lý luận CNXH, trong việc nghiên cứu và phát triển sáng tạo lý luận Mác - Lênin lúc này là cần thiết hơn bao giờ hết. Đó là một trong những nhiệm vụ hàng đầu và then chốt nhất nhằm mở rộng và tăng cường đoàn kết quốc tế, góp phần cùng nhau xây dựng và phát triển lớn mạnh nhân tố chủ quan của phong trào cách mạng trong giai đoạn hiện nay.

___________________

(1) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4, tr. 604.

(2) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.25, phần I, tr. 673.

(3) V.I. Lênin: Toàn tập, t. 34, tr. 258.

(4) Dẫn theo Báo Tuổi trẻ cuối tuần, số ra ngày 15-3-2009.

(5) Xem Tài liệu tham khảo đặc biệt, ngày 13-1-2009.

(6) V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t. 36, tr. 235.

GS Nguyễn Đức Bình

Theo Tạp chí Lý luận chính trị

Bình luận