Mối quan hệ giữa bảo vệ bí mật nhà nước với bảo đảm quyền tiếp cận thông tin

Ngày đăng: 25/07/2017 - 16:07

17.7.2017 Lan ảnh Mối QH giữa bảo vệ bí mật nhà nước với bảo đảm quyền tiếp cận thông tin

Người dân được tiếp cận thông tin từ các cơ quan công quyền - Nguồn: thanhnien.vn

Bảo vệ bí mật nhà nước là một nhiệm vụ quan trọng của Nhà nước, liên quan đến sự ổn định và phát triển bền vững của chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bảo vệ bí mật nhà nước có mối quan hệ mật thiết với bảo đảm các quyền con người, quyền công dân, trong đó có quyền tiếp cận thông tin. Do đó, việc xác định đúng phạm vi bí mật nhà nước đóng vai trò rất quan trọng trong việc vừa bảo đảm bảo vệ bí mật nhà nước vừa bảo đảm quyền tiếp cận thông tin.

Quyền tiếp cận thông tin là một trong các quyền cơ bản của con người, của công dân thuộc nhóm quyền dân sự - chính trị được ghi nhận trong Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền của Liên hợp quốc năm 1948 và Công ước quốc tế về các quyền dân sự năm 1966 mà Việt Nam là thành viên. Quyền tiếp cận thông tin liên tục được khẳng định trong nhiều điều ước quốc tế khác như Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng, Tuyên bố Rio về môi trường và phát triển, Công ước UNECE về tiếp cận thông tin môi trường.

Cơ sở Pháp lý về quyền tiếp cận thông tin và bảo vệ bí mật nhà nước

Ở nước ta, Hiến pháp năm 1992 lần đầu tiên xác định quyền được thông tin là quyền cơ bản của công dân. Cụ thể hóa Hiến pháp, cùng với quá trình đổi mới kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật theo các nguyên tắc của nhà nước pháp quyền, trong những năm qua, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật, quy định về thực hiện và bảo đảm thực hiện quyền được thông tin của công dân trong một số lĩnh vực.

Hiến pháp năm 2013 kế thừa quy định của Hiến pháp năm 1992 về quyền được thông tin của công dân và sửa đổi thành quyền tiếp cận thông tin của công dân: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định” (Điều 25 Hiến pháp năm 2013). Đồng thời, Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên quy định các nguyên tắc thực hiện quyền con người, quyền công dân, trong đó có quyền tiếp cận thông tin. Ví dụ, Điều 3 Hiến pháp năm 2013 khẳng định trách nhiệm của Nhà nước trong việc tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân: “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”; khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 quy định nguyên tắc thực hiện quyền con người, quyền công dân: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”.

Để cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 và để bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân, ngày 06-4-2016, tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật tiếp cận thông tin số 104/2016/QH13, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01-7-2018. Luật tiếp cận thông tin quy định về việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin của công dân, nguyên tắc, trình tự, thủ tục thực hiện quyền tiếp cận thông tin; trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ quan nhà nước trong việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân.

Điều 3 của Luật tiếp cận thông tin quy định về nguyên tắc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin như sau: “1) Mọi công dân đều bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin. 2) Thông tin được cung cấp phải chính xác, đầy đủ. 3) Việc cung cấp thông tin phải kịp thời, minh bạch, thuận lợi cho công dân; đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. 4) Việc hạn chế quyền tiếp cận thông tin phải do luật định trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng. 5) Việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin của công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức hoặc của người khác. 6) Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để người khuyết tật, người sinh sống ở khu vực biên giới, hải đảo, miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thực hiện quyền tiếp cận thông tin”. Như vậy, về nguyên tắc, công dân được quyền tự do, bình đẳng tiếp cận thông tin đầy đủ, chính xác. Việc hạn chế quyền này phải do luật định trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.

Điều 6 của Luật tiếp cận thông tin quy định về thông tin công dân không được tiếp cận: “1) Thông tin thuộc bí mật nhà nước, bao gồm những thông tin có nội dung quan trọng thuộc lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh quốc gia, đối ngoại, kinh tế, khoa học, công nghệ và các lĩnh vực khác theo quy định của luật. Khi thông tin thuộc bí mật nhà nước được giải mật thì công dân được tiếp cận theo quy định của Luật này. 2) Thông tin mà nếu để tiếp cận sẽ gây nguy hại đến lợi ích của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến quốc phòng, an ninh quốc gia, quan hệ quốc tế, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng; gây nguy hại đến tính mạng, cuộc sống hoặc tài sản của người khác; thông tin thuộc bí mật công tác; thông tin về cuộc họp nội bộ của cơ quan nhà nước; tài liệu do cơ quan nhà nước soạn thảo cho công việc nội bộ”. Như vậy, công dân không được tiếp cận thông tin thuộc bí mật nhà nước.

Trong Pháp lệnh bảo vệ bí mật nhà nước năm 2000 khái niệm bí mật nhà nước được quy định như sau: Bí mật nhà nước là những tin về vụ, việc, tài liệu, vật, địa điểm, thời gian, lời nói hoặc các dạng khác có nội dung quan trọng thuộc lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, kinh tế, khoa học, công nghệ, các lĩnh vực khác mà Nhà nước không công bố hoặc chưa công bố và nếu bị tiết lộ thì gây nguy hại cho Nhà nước, tổ chức.

Khái niệm bí mật nhà nước nêu trên đã chỉ ra những dấu hiệu đặc trưng của bí mật nhà nước, đó là:

Bí mật nhà nước trước hết phải là những tin (thông tin) về vụ, việc, tài liệu, vật, địa điểm, thời gian, lời nói hoặc các dạng khác. Những thông tin đó là những thông tin quan trọng thuộc các lĩnh vực của đời sống xã hội: Chính trị, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, kinh tế, khoa học, công nghệ, các lĩnh vực khác.

Bí mật nhà nước là những thông tin mà Nhà nước không công bố (có thể vĩnh viễn) hoặc chưa công bố (có thời hạn). Do tính chất quan trọng của thông tin nên Nhà nước không công bố hoặc chưa công bố. Dấu hiệu này cũng thể hiện bí mật nhà nước do Nhà nước quản lý. Bí mật đó có thể liên quan đến Nhà nước hoặc các tổ chức trong xã hội nhưng vẫn do Nhà nước quản lý. Sự quản lý của Nhà nước đối với bí mật nhà nước được biểu hiện ở việc Nhà nước quy định như thế nào là bí mật nhà nước, xác định phạm vi bí mật nhà nước, xác lập danh mục bí mật nhà nước, cất giữ, bảo quản, sao, chép, cung cấp bí mật nhà nước… Sự quản lý của Nhà nước không chỉ đối với những bí mật nhà nước được xác lập trong danh mục bí mật nhà nước mà cả với những bí mật nhà nước chưa được xác lập trong danh mục bí mật nhà nước. Mặt khác, dấu hiệu này cũng thể hiện bí mật nhà nước không phải chỉ thuần túy là các thông tin liên quan đến Nhà nước cần được giữ kín mà còn bao gồm cả các thông tin bí mật của Đảng, của các tổ chức cần được giữ kín và Nhà nước thống nhất quản lý.

Những thông tin thuộc phạm vi bí mật nhà nước nếu bị tiết lộ sẽ gây nguy hại cho Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc cho các tổ chức (gồm cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân và tổ chức khác được thành lập theo quy định của pháp luật). Dấu hiệu này cũng thể hiện phạm vi bí mật nhà nước đã bao trùm bí mật của Đảng và của các tổ chức. Một thông tin nào đó nếu bị tiết lộ mà không gây nguy hại cho Nhà nước, tổ chức thì không phải bí mật nhà nước.

Từ những quy định trên, có thể thấy giữa bảo vệ bí mật nhà nước với bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và có thể xung đột với nhau. Bảo vệ bí mật nhà nước luôn luôn phải đáp ứng đồng thời các yêu cầu của quản lý nhà nước về bảo vệ bí mật nhà nước nhằm bảo đảm tuyệt đối an toàn cho bí mật nhà nước đồng thời cũng phải công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền tự do, dân chủ, quyền con người, quyền công dân, trong đó có quyền tiếp cận thông tin.

Quan hệ giữa bảo vệ bí mật nhà nước và bảo đảm quyền tiếp cận thông tin

Trong mối quan hệ giữa bảo vệ bí mật nhà nước với bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân đặt ra hai khuynh hướng:

Một là, lạm dụng bảo vệ bí mật nhà nước dẫn đến hạn chế quyền tiếp cận thông tin của công dân. Khuynh hướng này tuyệt đối hóa việc bảo vệ bí mật nhà nước, xác định phạm vi bí mật nhà nước quá rộng, cái gì cũng cho là bí mật nhà nước, không phải bí mật nhà nước cũng đóng dấu mật, lợi dụng yêu cầu bảo vệ bí mật nhà nước để từ chối việc cung cấp thông tin, từ chối cho công dân tiếp cận thông tin, thậm chí lợi dụng yêu cầu bảo vệ bí mật nhà nước để che giấu hành vi vi phạm pháp luật.

Hai là, xem nhẹ yêu cầu bảo vệ bí mật nhà nước, lạm dụng quyền tiếp cận thông tin dẫn đến xâm phạm bí mật nhà nước. Khuynh hướng này tuyệt đối hóa quyền tiếp cận thông tin, xem nhẹ yêu cầu bảo vệ bí mật nhà nước, cung cấp thông tin tùy tiện, dẫn đến lộ, lọt, mất bí mật nhà nước.

Cả hai khuynh hướng trên đều bất cập, dẫn đến không bảo vệ được bí mật nhà nước hoặc không bảo đảm được quyền tiếp cận thông tin của công dân. Do đó, để khắc phục tình trạng trên, vừa bảo vệ được bí mật nhà nước, vừa bảo đảm được quyền tiếp cận thông tin của công dân, chúng ta cần chú ý giải quyết tốt một số vấn đề sau:

Thứ nhất, cần nhận thức cho đúng về vị trí, vai trò và mối quan hệ giữa bảo vệ bí mật nhà nước với bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân. Trong đó cần thấy được, bảo vệ bí mật nhà nước là một nội dung quan trọng trong bảo vệ an ninh quốc gia, liên quan đến sự ổn định và phát triển bền vững của chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, sự bất khả xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Đây là vấn đề mang tính nguyên tắc, là một khía cạnh của nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, cần bảo vệ tuyệt đối an toàn bí mật nhà nước, không để bí mật nhà nước bị lộ, lọt, mất, bị xâm phạm. Đồng thời, cần phải thấy rằng việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân cũng là vấn đề mang tính nguyên tắc đã được Hiến pháp và luật quy định. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, chúng ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; Nhân dân là người làm chủ mọi mặt của đất nước; quyền con người, quyền công dân ngày càng được đề cao và ở vị trí trung tâm của mọi chính sách phát triển; nhu cầu thông tin của công dân ngày càng gia tăng, nhất là các thông tin liên quan trực tiếp đến việc thực hiện các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Thứ hai, cần quán triệt và thực hiện đúng nguyên tắc “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”; cần ưu tiên hoàn thiện các luật về quyền con người. Việc ban hành Luật tiếp cận thông tin trong đó có quy định về trường hợp hạn chế quyền tiếp cận thông tin của công dân (với thông tin thuộc bí mật nhà nước) chính là một nội dung để thực hiện quy định của Hiến pháp. Mặt khác, văn bản quy phạm pháp luật cao nhất trực tiếp quy định về bảo vệ bí mật nhà nước hiện nay là Pháp lệnh bảo vệ bí mật nhà nước năm 2000, chưa có Luật bảo vệ bí mật nhà nước. Vì vậy, đi liền với việc ban hành Luật tiếp cận thông tin cần sớm ban hành Luật bảo vệ bí mật nhà nước (thay thế Pháp lệnh bảo vệ bí mật nhà nước năm 2000) để quy định về bí mật nhà nước và thông tin thuộc phạm vi bí mật nhà nước sẽ không được tiết lộ, không được cung cấp cho người không có trách nhiệm. Đây chính là trường hợp hạn chế quyền tiếp cận thông tin của công dân, do vậy ban hành Luật bảo vệ bí mật nhà nước để phù hợp với quy định của Hiến pháp (trường hợp hạn chế quyền công dân phải do luật quy định).

Thứ ba, cần xác định phạm vi bí mật nhà nước phù hợp, bảo đảm vừa bảo vệ được các thông tin bí mật quan trọng; vừa thúc đẩy, tạo điều kiện thuận lợi thực hiện và bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân. Khi xác định phạm vi bí mật nhà nước cần tránh hai khuynh hướng: Một là, xác định phạm vi bí mật nhà nước tràn lan, quá rộng, không phải là bí mật nhà nước cũng cho là bí mật và đóng dấu mật… Điều này sẽ dẫn đến tình trạng bí mật nhà nước quá nhiều, quá rộng, không bảo vệ được hết; lộ, lọt, mất bí mật nhà nước xảy ra nhiều mà không xử lý được hết làm ảnh hưởng đến tính nghiêm minh của pháp luật. Mặt khác, xác định như vậy sẽ hạn chế quyền tiếp cận thông tin của công dân, hạn chế việc mở rộng dân chủ, nhân quyền và có thể lợi dụng bí mật nhà nước để che giấu hành vi vi phạm pháp luật. Hai là, xác định phạm vi bí mật nhà nước quá hẹp, quá cứng nhắc, dẫn đến sót, lọt những bí mật quan trọng cần phải bảo vệ; nếu mở rộng quyền tiếp cận thông tin theo hướng hoàn toàn tự do tiếp cận thông tin sẽ dễ dẫn đến lộ, lọt, mất bí mật nhà nước, là điều kiện thuận lợi cho các hoạt động thu thập bí mật nhà nước và có thể gây ra những thiệt hại cho lợi ích quốc gia.

Vì vậy, việc xác định đúng phạm vi bí mật nhà nước và phạm vi thông tin được công khai là rất hệ trọng; làm được điều đó, sẽ tạo lập được sự thống nhất giữa bí mật và công khai, giữa bảo vệ bí mật nhà nước với bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân./.

----------------------------------

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Bộ Công an: Thông tư hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 33/2002/NĐ-CP ngày 28-3-2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh bảo vệ bí mật nhà nước, số 33/2015/TT-BCA ngày 20-7-2015.

2. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Nghị định quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh bảo vệ bí mật nhà nước, số 33/2002/NĐ-CP ngày 28-3-2002.

3. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

4. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001).

5. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Luật tiếp cận thông tin năm 2016.

6. Ủy ban thường vụ Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Pháp lệnh bảo vệ bí mật nhà nước năm 2000.

Thiếu tá, ThS. Phùng Văn Tài

Trường Cao đẳng An ninh nhân dân I

Theo Tạp chí Cộng sản

Bình luận