Bác Hồ chuẩn bị cho cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945

Ngày đăng: 14/08/2017 - 09:08

Thực tế lịch sử đã khẳng định: Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là kết quả của cuộc hành trình 30 năm tìm đường cứu nước của Bác Hồ. Đây là kết quả tất yếu công lao lớn của Bác chuẩn bị cho việc tiến hành cuộc cách mạng giải phóng kể từ ngày Bác về nước. Thế nhưng, đã có một luận điểm phản động phản lịch sử cho rằng, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chỉ là sự ngẫu nhiên, ăn may nhờ vào sự kiện Liên Xô đánh thắng chủ nghĩa phát xít thế giới. Chỉ cần căn cứ vào sự kiện lịch sử và sự chuẩn bị của Bác Hồ, chúng ta dễ dàng đánh đổ luận điểm ác ý trên:

Sau khi đề nghị và được Quốc tế Cộng sản chấp thuận, mùa Đông năm 1938, Bác Hồ đến Trung Quốc (lấy tên là Hồ Quang với cấp bậc thiếu tá) tìm cách về nước để trực tiếp lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc - cuộc cách mạng mà Bác đã phải mất 30 năm tìm tòi. Tháng 2-1940, mang bí danh “ông Trần”, Bác đến nhà ông bà Tống Minh Phương, Việt kiều ở số 76 đường Kim Bích trong nội thành Côn Minh và Người đã chắp được mối liên hệ với Đảng và phong trào cách mạng trong nước qua Ban công tác Hải ngoại của Đảng.

Ngày 15-6-1940, Đức tấn công nước Pháp, ngày 22-6-1940, Pháp đầu hàng Đức vô điều kiện. Trước tình hình mới, Bác Hồ (lúc này với một tên mới “đồng chí Vương”) đã triệu tập cuộc họp Ban Hải ngoại và Người đã phân tích: “Việc Pháp mất nước là một cơ hội rất thuận lợi cho cách mạng Việt Nam. Ta phải tìm mọi cách về nước ngay để tranh thủ thời cơ. Chậm trễ lúc này là có tội với cách mạng”[1].

Lịch sử mãi mãi nhớ ghi: ngày 28-1-1941, đất nước đón một người con của dân tộc, trước đó 30 năm đi tìm chân lý để về giúp đồng bào trong tình cảm:

“Bác đã về đây Tổ quốc ơi!

Nhớ thương, hòn đất ấm hơi Người.

Ba mươi năm ấy chân không nghỉ,

Mà đến bây giờ mới tới nơi!”.

(Tố Hữu)

Được sự giúp đỡ của cán bộ và đồng bào địa phương, ngày 8-2-1941, với tên gọi mới là Già Thu, Bác ở và làm việc tại hang Cốc Bó (tiếng Nùng có nghĩa là đầu nguồn), một hang núi kín đáo của dãy núi hùng vĩ. Tại hang Cốc Bó, Bác đã tạc trên phiến nhũ đá bức tượng Các Mác, nên Bác đặt tên là núi Các Mác, ở thôn Pác Bó, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Tài sản của Bác không có gì ngoài chiếc va li mây đựng tài liệu, cái máy chữ và chiếc sàn nằm bằng tấm gỗ. Ban ngày, Bác ra bờ suối nơi đầu nguồn (mà Bác đặt tên cho suối là suối Lênin), những người giúp việc Bác đã tạo ra cho Bác một cái bàn và một cái ghế bằng những tảng đá ghép lại để Bác làm việc. Và “sáng ra bờ suối, tối vào hang”, Người bắt đầu chăm lo một sự nghiệp lớn “hai tay gây dựng một sơn hà”.

Tháng 5-1941, Bác đã triệu tập và chủ trì Hội nghị lần thứ 8 của Đảng tại Khuổi Nậm (Pác Bó) để quyết định giành độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc. Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh gọi tắt là Việt Minh. Lúc này Mặt trận Việt Minh là tổ chức lãnh đạo và chỉ đạo cách mạng giải phóng dân tộc. Hồ Chí Minh đã soạn thảo “Mười chính sách của Việt Minh” là một trong những bài thơ Bác viết để tuyên truyền, cổ động nhân dân, làm thức dậy truyền thống yêu nước của mọi tầng lớp nhân dân đứng lên đánh giặc, cứu nước.

“Chúng ta có Hội Việt Minh

Đủ tài lãnh đạo chúng mình đấu tranh”[2].

Chỉ có Việt Minh mới đủ sức lãnh đạo toàn dân ta đứng lên giành độc lập, tự do, Bác khuyến khích, động viên mọi người trong bài thơ Phụ nữ và Công nhân:

“Đua nhau vào Hội Việt Minh

Trước giúp nước, sau giúp mình mới nên”2.

“Cùng nhau vào Hội Việt Minh,

Ra tay tranh đấu hy sinh mới là”...3.

Mặt trận Việt Minh đã lôi cuốn, tập hợp quần chúng cả nước đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền, đã góp phần quyết định vào sự thành công của Cách mạng Tháng Tám và vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh là cực kỳ to lớn - Người cầm lái con thuyền cách mạng vượt qua bão táp để cập bến độc lập, tự do.

Trong hai năm 1941, 1942 ở Cao Bằng, Bác viết rất nhiều tác phẩm kêu gọi toàn dân đoàn kết một lòng, tuyên truyền, cổ vũ mọi giai cấp, tầng lớp nhân dân chờ thời cơ đứng lên đánh giặc cứu Tổ quốc. Như:

- Khuyên đồng bào mua Báo Việt Nam độc lập* (1-8-1941)

- Mười chính sách của Việt Minh (1941)

- Dân cày (21-8-1941)

- Phụ nữ (1-9-1941)

- Công nhân (11-10-1941)

- Ca đội tự vệ (1-2-1942)

- Hòn đá (21-4-1942)

- Lịch sử nước ta (2-1942).

Trong những tác phẩm này, Bác đã đưa ra một dự đoán thời gian nước nhà độc lập “Việt Nam độc lập: 1945”. Và thực tế lịch sử đã chứng minh đúng dự báo thiên tài này của Người. Ngày mồng 2 tháng 9 năm 1945, nước Việt Nam mới của chúng ta đã ra đời.

- Trong tác phẩm Kính cáo đồng bào (6-6-1941) và nhiều tác phẩm khác, thể hiện rất rõ tư tưởng về giải phóng dân tộc của Bác: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa nóng”[3].

Toát lên từ các tác phẩm trên chính là những vấn đề cốt tử cho một cuộc cách mạng giải phóng: Một là, việc mở mang dân trí như trong bài Khuyên đồng bào mua Báo Việt Nam độc lập, Bác viết: “Làm cho ta mở mắt, mở tai. Cho ta biết đó biết đây... Cho ta biết nước non ta là gì...”2.Hai là, vấn đề tổ chức, Bác coi đây là một trong những nhân tố mang tính quyết định giúp cách mạng sớm thành công và vai trò của tổ chức là sự lãnh đạo, chỉ đạo là Mặt trận Việt Minh “Đủ tài lãnh đạo chúng mình đấu tranh”. Ba là, vấn đề đoàn kết, trong rất nhiều tác phẩm của Bác đều nói rõ: Chúng ta phải biết kết đoàn. Phải đoàn kết lại để mà đấu tranh.

Về việc chuẩn bị lực lượng cho cuộc cách mạng giải phóng, Bác viết tác phẩm đầu tiên về quân sự Cách đánh du kích (năm 1941). Tác phẩm đã góp phần quan trọng giáo dục lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết chiến đấu cho đảng viên và quần chúng cách mạng, đồng thời tác phẩm giới thiệu kinh nghiệm lịch sử và bước đầu nêu lên một số vấn đề về đường lối quân sự để chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa vũ trang.

Cùng với việc chuẩn bị tài liệu cho việc huấn luyện, Bác cho mở lớp quân sự đầu tiên tại Pác Bó và Bác gọi đây là lớp tổ du kích Pác Bó. Tại lớp học này, Bác giao cho đồng chí Đinh Sửu (tức đồng chí Trương Thiết Hùng - sau này là vị tướng trong quân đội) phụ trách lớp. Những học viên của lớp quân sự có kể lại chuyện Bác dạy cho bài về sự thượng tôn dân tộc: hôm đó đến môn bồng súng chào, cả lớp đang lúng túng không biết chào theo kiểu gì, thì được Bác đến thăm, Bác hỏi:

- Có gì khó không?

Sau khi đồng chí Đinh Sửu báo cáo, Bác hỏi:

- Tây chào kiểu nào?

Đồng chí Đinh Sửu làm mẫu, Bác lại hỏi:

- Tàu chào kiểu nào?

Đồng chí Đinh Sửu lại cầm súng làm mẫu, Bác nói:

- Thế theo kiểu không Tây, không Tàu được không?

Và Bác bày cho cả lớp làm: nâng súng lên, hơi ngả mũi súng về phía trước, cho báng súng áp sát vào đùi, súng và người tạo thành chữ V. Nhìn các đồng chí học viên của lớp làm một lượt, Bác bảo:

- Được đấy, chào theo kiểu Việt Minh[4].

Sau một thời gian chuẩn bị, ngày 22-12-1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân được thành lập theo chỉ thị của Bác. Đây là tổ chức tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam hùng mạnh, mang bản chất “Bộ đội Cụ Hồ”: “Trung với nước, hiếu với dân. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành. Khó khăn nào cũng vượt qua. Kẻ thù nào cũng đánh thắng”, góp sức cùng với dân tộc bách chiến, bách thắng.

Bác đã dạy: “Làm cách mạng phải biết dựa vào thời cơ và phải nhìn chung phong trào mọi nơi, mọi chốn mới chiến thắng”[5], nên khi Chiến tranh thế giới thứ hai chuyển biến có lợi cho phe Đồng minh, Bác đã xác định nhiệm vụ cho cách mạng nước ta “Phe xâm lược gần đến ngày bị tiêu diệt. Các Đồng minh quốc sắp tranh được sự thắng lợi cuối cùng. Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp. Ta phải làm nhanh!”[6].

Đêm ngày 9-3-1945, Nhật đã làm cuộc đảo chính hất cẳng thực dân Pháp, độc chiếm Đông Dương. Trước tình hình mới, để có điều kiện kịp thời chỉ đạo phong trào cách mạng đang dâng cao trong cả nước, từ đầu tháng 5 năm 1945, Bác cho chuyển “đại bản doanh” của cách mạng từ Pác Bó (Cao Bằng) về Tân Trào (Tuyên Quang) để chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa.

Chấp hành chỉ thị của Bác, ngày 4-6-1945, Tổng bộ Việt Minh đã triệu tập Hội nghị cán bộ tuyên bố chính thức thành lập Khu giải phóng - hình ảnh một nước Việt Nam mới cho thế trận tổng khởi nghĩa. Tháng 8 năm 1945, phát xít Đức đầu hàng Đồng minh, Bác Hồ cùng Trung ương Đảng họp Hội nghị toàn quốc của Đảng và Đại hội đại biểu Quốc dân ở Tân Trào. Bác đã ra chỉ thị: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”.

Để lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đi tới thắng lợi, Đại hội Quốc dân Tân Trào cử ra Uỷ ban Dân tộc giải phóng Việt Nam do Bác Hồ làm Chủ tịch.

Đại hội Quốc dân Tân Trào đã hoàn thành nhiệm vụ như của một Quốc hội dân cử. Đại hội đã thể hiện sự đoàn kết nhất trí của toàn dân tộc Việt Nam trong Mặt trận Việt Minh, biểu thị lòng tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh, biểu thị ý chí và quyết tâm đưa cuộc Tổng khởi nghĩa đến thắng lợi hoàn toàn vào ngày 19-8-1945 và ngày 2-9-1945, Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Qua những dẫn chứng trên đây, rõ ràng là Pác Bó - Cao Bằng mà trong đó Cốc Bó, Khuổi Nậm là điểm khởi nguồn sự chuẩn bị công phu, chu đáo của Đảng, của Bác Hồ, đảm bảo chắc chắn cho cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đi tới thành công, như Bác Hồ đã khẳng định trong lần về thăm lại nơi đây (vào tháng 2 năm 1961):

Hai mươi năm trước ở hang này,

Đảng vạch con đường đánh Nhật - Tây.

Lãnh đạo toàn dân ra chiến đấu,

Non sông gấm vóc có ngày nay.

Nói về công lao chuẩn bị chu đáo của Bác Hồ cho cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đầu năm 1947, cụ Huỳnh Thúc Kháng (1876-1947) (với danh nghĩa là Hội trưởng Hội Quốc dân Việt Nam), đã viết một bức thư dài bằng chữ Hán (thể phú) nhan đề: “Kính cáo đồng bào phụ lão kháng chiến thư” và chỉ rõ: “Người thân yêu, kính mến nhất của đồng bào quốc dân ta là Hồ Chí Minh tiên sinh. Là bậc yêu nước đại chí sĩ, là nhà lịch nghiệm cách mạng đại chuyên gia, chân đi khắp 5 châu, mắt trông xa vạn dặm. Nhận rõ thời cuộc, lặng đồ thời cơ. Tổ chức giải phóng du kích quân, lãnh đạo thanh niên, cán bộ, bộ đội. Quân dân một chí, ước vạn đồng lòng. Chất chứa lâu ngày, chuốt mài đứng dậy. Cầm đầu giơ tay kêu gọi là trận tuyến Việt Minh. Hưởng ứng múa gậy đứng lên là dân quân toàn quốc. Tiếng sấm đứng lên dậy đất, thế quân vang dội long trời. Cây cỏ hùa theo giúp oai linh, nước non quanh theo hò hét. Sao 5 cánh cờ hồng che khắp vùng quê, ngõ chợ, phất phẩy cùng nơi. Người 3 kỳ máu đỏ sục sôi, họp lại chia ra phùn phụt khắp chốn. Thây phơi đầy nội là tham quân của Pháp lang sói.

Sức mạnh anh hùng là chiến sĩ xung phong của đội tự vệ. Oanh liệt một trường, nước non muôn thuở. Xiềng xích cường quyền trên 8 thế kỷ, vó trâu, chân ngựa quét sạch sành sanh. Trò hề chuyên chế 3 ngàn năm, cảnh cọp, hầm ly lặng im thin thít.

Sướng ơi là sướng, thoát thân nô lệ làm chủ nhân ông. Vui thật là vui, đổi quyền vua mà làm dân quốc mới”[7].

Rõ ràng những sự kiện lịch sử, những sự chuẩn bị trên đây là cơ sở chắc chắn cho sự thắng lợi tất yếu của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, chứ không phải là sự ngẫu nhiên, ăn may.

Bài viết trích trong cuốn Đạo đức Bác Hồ tấm gương soi sáng cho muôn đời

do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản



[1]. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng: Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, t.2, tr.99.

[2], 2, 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.243, 239, 241.

* Báo Việt Nam độc lập: Cơ quan tuyên truyền của Ban Việt Minh tỉnh Cao Bằng, do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập (B.T).

[3], 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.230, 236.

[4]. Xem Đầu nguồn, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1970.

[5]. Hồ Chí Minh - Tiểu sử, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2006, tr.308.

[6]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.538.

[7]. Những lần gặp Bác, Nxb. Đà Nẵng, 1985, tr.25-26.

Bình luận